Mỗi khi nghĩ đến Fukuzawa Yukichi, ta không khỏi nghĩ đến Nguyễn Trường Tộ.
Cả Fukuzawa Yukichi và Nguyễn Trường Tộ đều là là những nhà tư tưởng
về cải cách, sống cùng giai đoạn lịch sử. Nhưng một người thành công,
một người thất bại.
Câu hỏi đặt ra là: Vì sao Fukuzawa Yukichi thành công, còn Nguyễn Trường Tộ thì thất bại?
Một phần của câu trả lời đến từ sự khác nhau trong cách tiếp cận của hai người.
Trí thức độc lập
Sau khi tiếp thu nền văn minh phương Tây, và nhận thấy cần phải tiến
hành cải cách để canh tân đất nước nhằm giữ nền độc lập, vươn lên sánh
vai cùng các cường quốc phương Tây, Fukuzawa Yukichi tiến hành chương
trình hành động của mình.
Các việc làm của Fukuzawa Yukichi tương đối phong phú, nhưng có thể
khái quát ngắn gọn như sau: mở trường dạy học, dịch sách, viết sách,
làm báo để truyền bá văn minh phương Tây cho trí thức và dân chúng Nhật
Bản.
Ảnh minh họa. |
Ông tìm cách khai sáng cho dân chúng và trí thức Nhật Bản, lúc đó
còn chìm đắm trong lối học từ chương ảnh hưởng của Nho giáo Trung Hoa,
thông qua việc cổ vũ lối thực học của phương Tây; xây dựng hình mẫu trí
thức độc lập và chủ trương "độc lập quốc gia thông qua độc lập cá nhân".
Bản thân ông cũng hành động như một hình mẫu của trí thức độc lập, không phục thuộc vào giới cầm quyền.
Ông kêu gọi trí thức Nhật Bản lúc bấy giờ hãy "coi trọng quốc gia và coi nhẹ chính phủ",
tự tin vào sức mạnh và vị thế độc lập của mình. Từ đó dấn đến niềm tin
tuyệt đối vào sức mạnh của tri thức và nền văn minh mới mẻ có tác dụng
giải phóng tư duy và bồi đắp sự độc lập của cá nhân.
Khi trường Đại học Keio do ông sáng lập có nguy cơ phải đóng cửa vì nội chiến, chỉ còn 18 học sinh, nhưng ông vẫn tin tưởng: "Chừng nào ngôi trường này còn đứng vững, Nhật Bản vẫn sẽ là quốc gia văn minh trên thế giới".
Fukuzawa Yukichi sống và làm việc như một trí thức độc lập điển hình.
"Trí thức cận thần"
Khác với Fukuzawa Yukichi, Nguyễn Trường Tộ, sau khi tiếp thu văn
minh phương Tây, không truyền bá để khai sáng cho đại chúng mà dành
phần lớn tâm sức cho việc viết tấu trình gửi nhà Vua. Tất cả các bản
tấu trình và điều trần của ông đều không được đưa ra sử dụng, dù hơn ai
hết, ông biết được giá trị thật của chúng: "Tế cấp luận thâu tóm trí
khôn của thiên hạ 500 năm nay... Bài Tế cấp luận của tôi nếu đem ra
thực hành hàng trăm năm cũng chưa hết".
Bằng cách đó, ông đã phụ thuộc tuyệt đối vào nhà cầm quyền, đánh mất
vị thế độc lập của người trí thức. Nói cách khác, ông hành xử như một "trí thức cận thần": Viết tấu trình và chờ đợi sự sáng suốt của nhà Vua.
Như thế, ông đã tự tước đi cơ hội của chính mình, và rộng ra là của
cả dân tộc, vì trong suốt lịch sử, số lượng các minh quân vô cùng ít.
Những kiến nghị cải cách của ông, dù đúng đắn và có tầm vóc thời đại, nhưng rốt cuộc lại trở nên vô dụng.
Do hành xử như một "trí thức cận thần", không có được sự độc
lập cho bản thân mình, dẫn đến không có đóng góp gì đáng kể vào sự hình
thành giới trí thức đúng nghĩa, nên sau khi ông mất đi, không có người
tiếp nối. Tư tưởng canh tân đổi mới của ông vì thế bị chìm vào quên
lãng.
Bài học cho hậu thế
Sự thất bại của Nguyễn Trường Tộ chính là bài học lớn nhất dành cho
hậu thế. Tiếc rằng, bài học này, dù phải trả học phí rất đắt bởi không
chỉ Nguyễn Trường Tộ mà còn cả dân tộc, không được sử dụng.
Những người có trách nhiệm thậm chí còn cổ vũ và yêu cầu trí thức phải đi theo lối con đường "trí thức cận thần"
của Nguyễn Trường Tộ khi cho rằng: Trí thức muốn kiến nghị hay phản
biện xã hội, cần gửi cho các cơ quan hữu trách trước khi phổ biến ra
ngoài xã hội.
Lịch sử đã chứng minh: Đi theo còn đường đó là đi vào ngõ cụt. Làm theo cách đó là kéo lùi bước đi của dân tộc.
Trước tình cảnh đó, không còn cách nào khác, người trí thức phải tự
giác tránh con đường cụt đó, con đường "trí thức cận thần", để đi con
đường mới: con đường trí thức độc lập, trí thức dấn thân.
Chỉ khi đó, đất nước mới tránh được nguy cơ trở thành "đất nước cận thần", và giữ được nền độc lập đúng nghĩa.
Việc Quốc hội lắng nghe tiếng nói của những trí thức độc lập trong
thời gian gần đây cho thấy con đường trí thức độc lập đã được khai mở,
chỉ chờ người dấn bước.
________________________
Ghi chú:
1. Trái với dự đoán, sau khi kiểm tra tôi thấy: cụm từ "trí thức cận
thần" chưa phổ biến, và chưa thấy xuất hiện trên mạng internet.
2. Tôi được biết cụm từ này trong một thảo luận với một người bạn,
TS. Nguyễn Đức Thành, vào khoảng đầu tháng 5/2010. Theo anh Thành, cụm
từ này được hình thành trong một thảo luận của anh với một người bạn
khác, TS. Nguyễn An Nguyên. Tuy nhiên, anh cũng không rõ đã có ai sử
dung cụm từ này trước đó hay chưa.
3. Có một cụm từ khác có nghĩa gần tương tự với "trí thức cận thần",
đó là "trí thức phò chính thống", do nhà văn Phạm Thị Hoài nêu ra. Tuy
nhiên, theo tôi, nội hàm của hai cụm từ này có nhiều điểm khác biệt khá
tinh tế.
4. Nếu ai đã thấy văn bản nào có cụm từ này rồi thì vui lòng báo cho
tôi biết. Cá nhân tôi thấy cụm từ này có một nội hàm đáng suy ngẫm.
Fukuzawa
là nhà giáo dục và học giả có thể nói là người ở bên ngoài chính quyền
Nhật Bản có ảnh hưởng nhất trong giai đoạn cuộc Canh Tân Minh Trị, lật
đổ chế độ Tokugawa năm 1868. Ông lãnh đạo cuộc đấu tranh học tập những
ý tưởng của phương Tây nhằm xây dựng "một nước Nhật Bản hùng mạnh và
độc lập".
Fukuzawa đã viết trên 100 cuốn sách giải
thích và biện minh cho thể chế chính quyền nghị viện, giáo dục phổ
thông, cải cách ngôn ngữ và quyền của phụ nữ.
Trong
tác phẩm Phúc ông Tự truyện viết năm 1901, trước khi mất ít lâu,
Fukuzawa tuyên bố việc xoá bỏ mọi đặc ân phong kiến của triều đại Minh
Trị và chiến thắng chế độ phong kiến Trung Hoa trong cuộc chiến tranh
Trung - Nhật năm 1894-1895 để hình thành một nhà nước Nhật Bản hiện đại
chính là ước mơ suốt cuộc đời ông.
|
Nguyễn Trường Tộ sinh năm 1828 trong một gia đình Công giáo, quê làng Bùi Chu (nay thuộc xã Hưng Trung, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An).
Từ
nhỏ ông đã được Giám mục Ngô Gia Hậu (Gauchier) dạy tiếng Pháp cùng với
các môn khoa học thường thức của Tây phương. Ông lại được cho đi du học
ở nhiều nơi như Singapore, Malaisia, Pháp, La Mã... Trong những chuyến
đi đó, ông đã tìm tòi và lĩnh hội được nhiều tri thức khoa học mới,
trong lòng nung nấu đem những điều mình đã học hỏi được về phục vụ cho
lợi ích nước nhà.
Tháng 5 năm 1863 ông đã soạn xong
ba văn bản để gửi lên Triều đình Huế: bản thứ nhất là Tế cấp luận, bản
thứ hai là Giáo môn luận, bản thứ ba là Thiên hạ phân hợp đại thế luận.
Trong ba bản đó, bản Tế cấp luận là văn bản quan trọng nhất. Nội dung
của bản này đề cập đến việc canh tân và phát triển đất nước.
Sau
ba bản điều trần trên, Nguyễn Trường Tộ liên tục gửi nhiều bản khác lên
Triều đình Huế (có 58 di thảo gửi cho Triều trình, liên tục trong vòng
10 năm). Những bản điều trần của ông là những đề nghị tâm huyết nhằm
góp phần xây dựng đất nước, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng phong
bế, lạc hậu và tạo nên sự thay đổi lớn lao bên trong, đánh đuổi giặc
ngoại xâm. Nhìn vào nội dung các bản điều trần, chúng ta nhận thấy
Nguyễn Trường Tộ đã đi trước, và vượt lên trình độ của các tầng lớp trí
thức nho sỹ đương thời.
Song thật tiếc, những dòng tâm huyết ấy lại không được chấp nhận do hạn chế của thời đại.
|