“Đình tiền tạc dạ nhất chi mai!”
Đừng tưởng Xuân tàn hoa rụng hết,
Hôm qua sân trước, một cành mai.
Tiếng chổi trong tâm của người quét lá sân chùa vọng lại:
Đừng tưởng tuổi già răng rụng hết
Bảy mươi còn mọc chiếc răng khôn.
Cái “tưởng” là một định kiến ước lệ, khô
cằn; trong khi hiện thực là dòng nước tươi mát, trôi chảy thường hằng.
Thiền sư và người quét lá sân chùa chẳng có gì khác nhau. Chỉ có một lằn
ranh chưa gặp. Nhưng rồi có thể gặp nhau trong nháy mắt; một lúc nào đó
sẽ gặp; hay không bao giờ gặp: Tri giác và Tuệ giác.
Mai nở sớm hay mai cũ của mùa Xuân năm
trước là câu hỏi theo cái nhìn cảm giác đời thường. Nhưng với sự tinh
anh từ ánh mắt đang phóng nét nhìn lạnh cả hư không, về thế giới hư
huyễn – mà chữ nghĩa nhà Phật thường gọi là “quán niệm vạn pháp vô
thường” – thì đó chẳng phải là cành mai mới cắt trong vườn nhà ở làng
Hương Cần, vác qua Huế bán ở chợ hoa ngày Tết Thương Bạc mà là cành mai
“thật”, cành mai tinh túy mang bản chất của mọi cành mai từ cổ sơ đến
hôm nay và mãi mãi.
Dựa theo thơ của danh tăng Ashi Zumi,
phái Tào động (Nhật Bản) thì có thể nói như thế này: Cắt một nhành mai
hình tướng. Cắm vào bình thủy tinh. Có một cành mai thể tánh. Ẩn trong
lòng biển xanh. Phải chăng như Mẹ là hình tướng mà tình yêu cao tuyệt vô
biên của mẹ cho con là thể tánh? Mẹ không còn nữa, tình yêu của mẹ ẩn
trong lòng biển xanh.
Như ngày xưa, cụ nghè Tam nguyên Yên Đỗ
Nguyễn Khuyến cũng nhìn thấy: “Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái. Một
tiếng trên không ngỗng nước nào?!” Nhưng đây là cái nhìn thông qua cảm
xúc, tri giác. Có người hỏi: “Văn chương tự cổ vô bằng cớ. Văn chương từ
xưa là sản phẩm của cảm xúc nên không có bằng cớ gì cả. Vậy thì căn cứ
vào đâu để nói Nguyễn Khuyến không là một thiền sư như Mãn Giác của hơn
nghìn năm trước?” Hình như chỉ có một sự khác nhau rất nhỏ. “Hình như”
vì bạn và ta, và cả vũ trụ vô biên này đều giả tạm, huống chi là một
dòng tư tưởng mơ hồ (?!). Thiền sư Mãn Giác nhìn vạn sự qua nét nhìn
tĩnh lặng mà như xoáy vào nhịp biến dịch thành-trụ-hoại-không. Cụ nghè
Nguyễn Khuyến nhìn đối thể với sự hồ nghi chất vấn. Còn hồ nghi sẽ thiếu
vắng một nụ cười tuệ giác.
Mấy chùm trước giậu “hoa năm ngoái” của
Nguyễn Khuyến là hình tướng mà cành mai “đình tiền tạc dạ” của Mãn Giác
là thể tánh. Mai nở thông qua cái nhìn tuệ giác – Tuệ giác mùa Xuân.
Nụ cười, tuệ giác và mùa Xuân là ba khái
niệm và ba hình ảnh riêng biệt. Nhưng khi kết hợp và hòa quyện vào nhau
sẽ thành một nguồn vui trong mơ ước. Nhân gian ai lại không thích nụ
cười; ai mà chẳng muốn mùa Xuân. Muốn hái nụ tầm Xuân và tắm bến tầm
Xuân nhưng chẳng biết mặt mũi cái “nụ xanh biếc” hay cái bến vạn lý xa
xưa đó như thế nào và ở chốn nào. Tìm đâu cho gặp khi nó ở chính trong
ta. Nó là tiếng pháo khi vui, sương khói khi buồn, đóa hoa khi yêu và
nỗi đau khi ghét. Khi tìm nỗi lòng trên sông núi thì chính sông núi là
nỗi lòng. Ngay khi hết một đời buồn vui, xuôi tay về đất; người ở lại
thì khóc bù lu bù loa, thế mà người ra đi vẫn muốn cười, tuy hơi làm
biếng hả miệng: Ngậm cười nơi chín suối!
Tôn giáo ra đời cũng chỉ vì nhân gian
thích nụ cười vĩnh cửu. Tâm lý muốn lên Thiên đàng hay vào Niết-bàn cũng
chỉ vì… ham vui! Một tâm thức không còn ham vui là đã bị đóng băng
trong khổ đau và phiền não. Mọi hồng ân cứu rỗi hay độ trì đều chẳng còn
tác dụng gì lên sỏi đá. Bởi vậy, những thế giới hứa hẹn của các tôn
giáo sau khi chết mà không có những an lạc vĩnh hằng, yên nghỉ đời đời,
chim trời ca hát, nhạc trời véo von, niềm vui vĩnh cửu, hoa thơm cỏ lạ
bốn mùa thì hết thảy những người thích cười sẽ “trả lại vé” đã mua với
giá một đời tin cẩn, mong cầu niềm vui cho chuyến xe thổ mộ cuối cùng!
Người theo đạo Phật thể hiện giấc “mơ
vui” của mình qua hình ảnh đức Phật Di-lặc. Theo niềm tin và tín lý nhà
Phật thì có ba đời, mười phương Phật. Có hằng hà sa số chư Phật trong ba
đời quá khứ, hiện tại và vị lai. Thích-ca Mâu-ni là đức Phật của thời
hiện tại trong cõi Diêm Phù Đề mà chúng ta đang ở. Đức Phật tương lai
của cõi người nầy sẽ là Phật Di-lặc (Maitreya: Gốc chữ Phạn Maitri, có
nghĩa là từ bi, yên vui) là một vị đại Bồ-tát đang ngự ở cung trời Đâu
Suất. Nếu chỉ riêng Việt Nam ta cũng đã có gần cả trăm kiểu cười, cách
cười và nụ cười khác nhau thì thế giới cũng nhìn về biểu tượng yên vui
của đức Phật Di-lặc qua nhiều dáng vẻ phong phú như thế.
Tuy đạo Phật có nhiều bộ phái và pháp
môn khác nhau, nhưng hình ảnh Phật Di-lặc vẫn trở thành một ước vọng
chung tràn đầy niềm vui và hạnh phúc ở chân trời tương lai. Đức từ bi
của Phật Di-lặc được biểu hiện qua nhiều hình tướng khác nhau, tương hợp
với điều kiện và hoàn cảnh xã hội, bản chất con người và đặc tính văn
hóa của từng xứ, từng vùng.
Qua những tượng đài và kinh văn Ấn Độ
thì Phật Di-lặc là hiện thân của từ bi và trí tuệ với dáng vẻ minh
triết, trầm tư. Với Tây Tạng, Tích Lan thì Phật Di-lặc là hóa thân của
sự tái sinh an lạc và huyền nhiệm với dáng vẻ đẹp đẽ cao cả và huyền bí.
Nhưng tới đất Trung Hoa thì Phật Di-lặc là biểu trưng của sự hoan hỷ,
phong phú, mãn nguyện với nụ cười khoan khoái, sắc diện béo tròn, thân
đầy, bụng phệ, lúc nào cũng sẵn lòng dang tay đón nhận mọi người. Dưới
ảnh hưởng sâu rộng và lâu dài của kinh điển toàn bằng chữ Hán từ Trung
Hoa du nhập vào nước ta (Hán tạng), hình tượng đức Phật Di-lặc ở Việt
Nam vẫn chưa đạt được một bản sắc thuần Việt của tinh thần “Nam quốc sơn
hà Nam đế cư”. Cũng là nụ cười Di-lặc, nhưng bản chất văn hóa “cung hỷ
phát tài” của Trung Quốc làm mất đi tính chất tuệ giác của nguồn suối mơ
ước tâm linh. Nhiều nơi lẫn lộn giữa Phật Di-lặc và ông Thần Tài. Thậm
chí, khi mang ảnh tượng đức Di-lặc của Việt Nam và Trung Quốc sang các
nước Âu Mỹ thì trở thành những ông Phật Mập (Fat Buddha), Phật Cười
(Laughing Buddha), Phật Phát Tài (Lucky Buddha) hoặc những hình thức
tương tự để trang trí quanh những bồn hoa, hồ cá ở vườn sau.
Từ bi là lòng thương không mù quáng, trí
tuệ là sự hiểu biết không cực đoan và hoan hỷ là niềm vui không dung
tục. Tuy nhiên, qua lăng kính Đại thừa của Phật giáo Trung Hoa – được
đâm chồi nẩy lộc trong khung cảnh xã hội nông nghiệp và buôn bán nhỏ,
giữa hoàn cảnh văn hóa Khổng, Lão và phiếm thần dân gian làm xương sống
tâm linh – Phật Di-lặc trở thành biểu tượng của sự hoan hỷ, sung mãn,
hạnh phúc mang tính phàm trần, thực dụng. Vì con người tạo ra tôn giáo,
chứ không phải tôn giáo tạo ra con người nên con người có quyền chối bỏ
tôn giáo, nhưng tôn giáo không thể chối bỏ con người. Cho nên, không ít
người đã chơi trò dung dăng, dung dẻ với quyền tự do tâm linh để trói
buộc chính mình và người khác vào một sự dính mắc trầm kha như bệnh dịch
hạch. Chỉ riêng trên đất Trung Quốc từ thế kỷ thứ III đến nay, đã có
tới con số hàng trăm nhân vật theo Phật giáo xuất gia và tại gia tự xưng
là “hiện thân của Phật Di-lặc” giáng trần. Việt Nam ta cũng không thiếu
những ông đồng bà vãi như thế. Nhưng tất cả con người và vọng động đều
đến rồi đi như những hiện tượng chiến tranh, dịch họa.
Thật ra, đức Phật Di-lặc là tâm ảnh nói
lên niềm hy vọng thường an lạc; là biểu tượng mong cầu cho một tương lai
thịnh vượng, tươi sáng. Đời có bao nhiêu niềm ước mơ tốt đẹp thì sẽ có
bấy nhiêu mẫu hình tướng của nụ cười Di-lặc. Nếu có chăng điều quan ngại
thì nó sẽ không dừng lại ở mức độ hình tướng mà ở tác dụng của phương
tiện. Nếu nụ cười “niêm hoa vi tiếu” của Ca Diếp là sự khai mở của tuệ
giác, nhìn đóa sen trên tay Phật mà thấy hết tánh sen là tánh Phật; thấy
ngó sen đang ở trong bùn vẫn theo dòng sinh diệt, lặng lẽ nhô lên khỏi
mặt nước và có ngày nở rộ tỏa ngát hương thì nụ cười Di-lặc cũng sẽ
“đồng nhất thể” tương ưng như thế. Đó là một nụ cười rất đẹp và trọn
lành không phân biệt Bố Đại Hòa Thượng khi cho hay Thằng Bờm khi nhận.
Càng ngày, những nước văn minh Âu Mỹ
càng nghiên cứu sâu rộng để tiếp nhận và trân trọng tinh thần phá chấp,
từ bi và hóa giải của đạo Phật. Nhưng khác với người phương Đông, người
phương Tây không còn ảo tưởng về vai trò “cứu rỗi” vô điều kiện của tôn
giáo. Bởi vậy, họ tìm đến đạo Phật như một triết lý, một nghệ thuật sống
và đồng thời là một tôn giáo. Một câu hỏi thường xuyên xuất hiện của
những người Âu Mỹ mang nặng định kiến thần học phương Tây khi nhìn về
đạo Phật là: “Đạo Phật là một hệ thống triết lý, một học thuyết vô thần
hay một tôn giáo?” Người hiểu đạo (nói chung) trả lời không ngập ngừng:
“Thưa, cả ba!” Nhưng cũng có người bị dị ứng với khái niệm “vô thần”. Dị
ứng bởi vì tư tưởng bị đóng khung và lão hóa trong kiểu cách suy nghĩ
duy lý và chủ quan gọi tên, dán nhãn hiệu của phương Tây. Nghĩa là chỉ
biết khư khư định nghĩa “Thần” như là một đấng Sáng Thế toàn năng, một
vua Trời, một Thượng Đế. Mahatma Gandhi, người tin vào Thượng Đế Hindu,
đã nhận xét: “Đạo Phật không phủ nhận Thượng Đế nhưng định nghĩa Thượng
Đế theo một cách khác.” Đấng “Sáng Thế toàn năng” theo đạo Phật là
“Duyên Khởi từ bản thể Tánh Không” như cách nhìn của nhà vật lý nổi
tiếng nhất thời hiện tại, Stephen Hawking đã viết trong Sự Tạo Tác Vĩ
Đại (The Grand Design).
Người phương Tây tìm đến cái đẹp của
Phật giáo không phải qua hình thức lễ nghi, bái vọng với một tâm lý đột
phá những vòng trói buộc của tín điều và tín lý. Họ đánh giá chân xác
với lòng biết ơn nụ cười Di-lặc và tin rằng, một đức Phật tương lai sẽ
đến như một sự tái khẳng định nếp nghĩ, lối sống hòa bình, an lạc và trí
tuệ, chứ không phải là để “tái sáng thế” đầy huyền nhiệm và bí ẩn của
nếp tâm linh cổ sơ. Nếu quan chiêm những ảnh tượng của Phật Di-lặc trong
những chùa viện Phật giáo phương Tây ngày nay, người ta sẽ thấy toát
lên vẻ đẹp đầy nghệ thuật phảng phất hay rõ nét nụ cười toát ra từ bên
trong. Những ảnh tượng Di-lặc với ngoại hình đầy hoan hỷ đậm nét “thỏa
thê trù phú” trong các chùa viện Việt Nam mô phỏng hay chỉ là phiên bản
của Trung Quốc đang mất dần tác dụng giải thoát tâm linh trong thời đại
mới.
Truyền thống người Trung Quốc dân dã khi
gặp nhau thường chào câu đầu tiên: “Đã ăn chưa?” Ngày nay, kinh tế phát
triển, cơm áo không còn là nhu cầu bức xúc hàng ngày thì tiếng chào
cũng thay đổi dần như phương Tây không còn lo ăn mà lo vui, lo đẹp. Ước
mong dáng vẻ Di-lặc cũng sẽ theo phong trào tập “Tai Chi” và “Fitness”
mà trở nên thon thả, thanh lịch hơn trong những thế hệ tương lai. Đặc
biệt là trong khung cảnh văn hóa Việt Nam, các chùa viện Phật giáo cần
tìm cầu một biểu tượng an lạc của đức Phật Di-lặc nói riêng và tất cả
các tôn tượng, kiến trúc nói chung, phù hợp với bản chất dân tộc, văn
hóa và tính độc lập, độc sáng của mình.
Năm mới, mùa Xuân là sức bật của tuổi
trẻ, là điểm hẹn của tuổi trung niên và dấu ghi thêm một bước gần đất
của tuổi già. Nhưng tinh thần... ham vui cũng giông giống như “tài không
đợi tuổi”. Mong rằng, tinh thần nụ cười của tuệ giác mùa Xuân đang có
sẵn trong mỗi lòng người sẽ đâm chồi nẩy lộc tự nhiên và dễ dàng như hoa
lá quanh mình.■
Nguồn: Tập San Pháp Luân 78