Ai cũng cố
công đi tìm hạnh phúc cho mình, nhưng mấy ai biết được hạnh phúc chân
thật là gì, đôi khi lại tự mình chuốc lấy đau khổ.
Chúng ta đang sống trong một thế giới hiện đại đầy sự hướng
ngoại, vong bản, bị cuốn hút theo cuộc sống vật chất với xu hướng hưởng
thụ ngày càng cao, đầy những cám dỗ nên sự đau khổ về tinh thần ngày
càng sâu sắc. Hiện nay, ở các nước văn minh, tình trạng căng thẳng
(stress) do áp lực công việc ngày càng phổ biến. Ảnh hưởng của nền văn
minh đó tác động đến các nước Á Đông, vốn là các nước của những nền văn
minh lúa nước cũng bị ảnh hưởng theo xu hướng bôn ba, tất bật chạy đua
với thời gian trong cuộc sống mưu sinh. Vì vậy, đề cao và phát huy những
nét văn hóa tâm linh truyền thống của gia đình, của dân tộc là một
khuynh hướng “về nguồn”, sự sum họp tinh thần trong năng lượng
của tình thương để giảm tải những bế tắc trong cuộc sống vật chất là
điều rất cấp thiết. Chính những ngày Tết cổ truyền này là dịp để chúng
ta vun bồi, giữ gìn nét truyền thống tâm linh và thăng hoa hơn trong
cuộc sống hiện đại này.
Thế giới vật chất càng phát triển mạnh, con người càng hướng ngoại,
quay cuồng trong khổ não. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật Hoàng Trần Nhân
Tông, Tam Tổ Huyền Quang…, rất nhiều vị ở tuyệt đỉnh danh lợi nhưng các
ngài không tìm thấy niềm vui chân thật trong đời sống vương giả mà dám
từ bỏ địa vị để ra đi tìm đạo, học đạo và tu đạo. Rõ ràng, đạo lý là
cái có thể đem đến hạnh phúc chân thật, an vui, tự tại hơn những vinh
hoa phù phiếm bên ngoài. Hiểu được vậy, chúng ta không đắm nhiễm vào
những trụy lạc của đời sống hưởng thụ mà biết hướng đến đạo lý để gìn
giữ bản chất tinh khôi trong chính mình.
Năm cũ qua đi, chào đón một năm mới với biết bao mơ ước, hy vọng về
một chân trời mới, một cuộc sống an vui hạnh phúc. Ai cũng cố công đi
tìm hạnh phúc cho mình, nhưng mấy ai biết được hạnh phúc chân thật là
gì, đôi khi lại tự mình chuốc lấy đau khổ. Hạnh phúc vĩnh hằng là sự tự
do bình yên nội tại, sự tĩnh lặng nơi tâm thức, không bị khuấy động bởi
những tranh đua, nhiễu nhương của cuộc đời. Hạnh phúc đó, chính là mùa
xuân vĩnh cửu, mùa xuân trong ánh đạo huy hoàng, mùa xuân của người giác
ngộ mãi mãi không phôi phai và không có bóng dáng khổ đau.
Tất cả chúng ta đang trưởng thành trong gia tài văn hóa tâm linh của
dân tộc, cũng chính là gia tài văn hóa tâm linh của Đạo Phật, được tô
đậm từ hơn hai ngàn năm lịch sử. Gia tài đó sẵn có trong mỗi chúng ta,
chỉ cần nhìn kỹ để thấy rõ rồi đem ra dùng, như vua Trần Nhân Tông đã
nói:
“Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền”.
Tu là con đường để trở về “làm giàu” bằng chính gia tài có
sẵn trong mình, hướng đến mục đích duy nhất là viễn ly sinh tử. Cái giàu
không phải nơi đầy đủ tiện nghi vật chất, mà giàu sự an tịnh trong tâm
hồn, hoàn toàn không còn bóng dáng khổ đau. Chư Phật đã nói tất cả chúng
sanh đều có Phật tánh, Phật tri kiến, có bản tâm thanh tịnh thường
nhiên, nhưng vì mê chấp mà lăn lóc trong ba cõi sáu đường, trầm luân
sinh tử. Chỉ khi nhận được mình có viên ngọc trong chéo áo, đem ra dùng
thì liền giàu có. Cái giàu này không thể đem cái giàu của thế gian mà so
sánh. Bởi vật chất thế gian là vô thường huyễn hóa, của cải đó là nước
trôi, lửa cháy, vua quan cướp giựt, có đó liền mất, không gì bền chắc,
chỉ có “hòn ngọc như ý” trong chúng ta là thường hằng bất biến.
Thiền sư Mãn Giác đã nói:
“Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai.”
Bên cạnh cái tàn phai vô thường của thân-tâm-cảnh, vẫn có một đóa hoa
tâm luôn nở mãi theo thời gian. Hiểu được vậy, chúng ta phải nỗ lực
tinh tấn tu hành để hòa mình trong ánh sáng giác ngộ của chư Phật, chư
Bồ tát.
Mùa xuân là mùa của một sức sống mới. Cây cỏ hoa lá khoác lên mình
chiếc áo màu xanh mơn mởn, căng tràn nhựa sống. Đây là sự thay đổi tất
nhiên của trời đất vạn vật. Hoa nở hoa tàn là sự chuyển biến xoay vần
theo định luật vô thường của vũ trụ. Theo nhãn quan thông thường, chúng
ta thường ưa thích cái đẹp của hoa lúc nở rộ nhưng lại nhàm chán khi hoa
đã tàn phai. Dưới cái nhìn của người học Phật, phải thấy rằng, nếu
chúng ta ưa thích cái nở đẹp của hoa, thì cũng phải trân trọng sự úa tàn
của nó, bởi lẽ nếu không có tàn thì cũng chẳng có nở. Cái gì có đến thì
sẽ có đi, có thành ắt có hoại, có sống tức là có chết.
“Hữu sanh hữu tử hữu luân hồi
Vô sanh vô diệt vô khứ lai”.
Chết để chuẩn bị bắt đầu cho một cuộc sống mới với hoàn cảnh y báo,
chánh báo trang nghiêm hơn (nếu chúng ta tạo nhiều phước nghiệp), như
mùa đông lá rụng để chuẩn bị chào đón một mùa xuân với sự sống mới, màu
áo mới. Đây chính là thuyết “tái sinh” của Đạo Phật. Sự thay
đổi đó, là sự thay đổi rất vi diệu. Cho nên, vô thường là một thực tại
nhiệm mầu, đem lại nguồn sinh khí, sức sống hồi sinh cho cuộc đời. Không
nhờ vô thường thì hoa chẳng nở, cây cỏ không đâm chồi nẩy lộc, trái đất
cũng ngừng quay và trái tim này cũng ngừng đập. Hiểu theo nghĩa tích
cực, vô thường là sự biến chuyển, vận hành của vạn vật, để tạo nên sự
sống. Cho nên, vô thường tức là sự sống. Vì thế, ở trong sinh tử mà ngộ
ra lý vô sinh bất tử, ngay nơi biến dịch của các pháp mà nhận ra chơn
tâm tịch chiếu thường hằng, không động chuyển phan duyên theo trần cảnh
bên ngoài. Đó là chỗ sống của người tu Phật.
Sự sống và chết cứ diễn tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác trong cái
thế giới mê vọng và đau khổ. Từ cõi vĩnh hằng vô tận, do đam mê chấp
trước mà chúng ta có mặt trên cuộc đời này, nếm trải muôn vàn hệ lụy,
khổ đau, buồn vui, sướng khổ, thịnh suy, đắc thất nơi thân và tâm. Từ
đó, chúng ta mới thấm thía về bài học của cuộc đời vô thường biến đổi
đầy nhiễu nhương.
Một đời người (đầy đủ trọn vẹn) phải trải qua các giai đoạn ấu niên,
thiếu niên, thanh niên, trung niên, lão niên, rồi cuối cùng là chết để
chuyển qua một kiếp sống khác. Tuổi trẻ thì hồn nhiên trong sáng, tràn
trề sức sống với nhiều mơ ước hoài bão, kèm theo sự háo thắng, đua vui
và bồng bột. Tuổi càng về già, con người ta trầm tĩnh, tinh tế, nhẹ
nhàng hơn lúc nhỏ. Trải qua bao buồn vui, thương ghét, đắc thất, vinh
nhục, hạnh phúc, khổ đau, tự cọ xát, chứng nghiệm vào cuộc đời, chúng ta
gom góp cho mình những kinh nghiệm về cuộc sống nhân sinh, hiểu sâu sắc
hơn về giá trị tinh thần trong đời sống tâm linh. Từ đó truyền lại cho
con cháu, khuyến khích giới trẻ đến chùa học hiểu đạo lý, áp dụng tu
hành để chuyển hóa bản thân, Phật hóa gia đình, xây dựng đất nước, xã
hội giàu mạnh theo tinh thần từ bi, trí tuệ của Đạo Phật.
“Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của Tổ tông”.
(Huyền Không)
Vị trí ngôi chùa trong đời sống cộng đồng làng xã, đất nước, dân tộc,
quê hương, là giá trị của đạo đức tinh thần, nếp sống luân lý, là chỗ
dựa tinh thần đạo lý vững chắc cho người dân, mang đậm tính nhân văn cao
cả.
Trong một năm, thời khắc thiêng liêng, xúc cảm mạnh mẽ nhất là đêm
giao thừa, thời điểm giao thoa giữa năm cũ và năm mới, cảm xúc về tâm
linh, đạo lý giữa cái cũ và cái mới. Đối với chư Phật, Bồ tát, Thánh
Hiền, đối với ông bà, tổ tiên, các bậc tiền hiền, hậu hiền, anh linh
chiến sĩ quên mình vì đất nước để bảo vệ non sông gấm vóc và mình dường
như có sự giao cảm với nhau vào thời khắc đó. Đây là một nét đẹp trong
truyền thống văn hóa tâm linh của người Đông phương. Đó cũng là lúc gia
đình sum vầy, đoàn tụ đầm ấm bên nhau, chào đón một năm mới đã đến.
Dân gian thường nói:
“Ta về ta tắm ao ta
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”.
Nền kinh tế đất nước ta tuy không giàu bằng các nước văn minh tiên
tiến trên thế giới, nhưng có một truyền thống bản sắc văn hóa đạo đức
dân tộc nghìn năm văn hiến, với quốc hồn quốc túy thiêng liêng của quê
hương đất Tổ, con Hồng cháu Lạc, là tình thương nhân ái giữa bản thân
mình với gia đình, làng xóm, tình yêu quê hương đất nước đậm đà, da
diết. Dẫu cho bôn ba xuôi ngược với dòng đời nơi phương trời nào, giờ
phút đó, chúng ta đều muốn được trở về bên ông bà cha mẹ, thắp lên bàn
thờ Tổ tiên một nén hương lòng tưởng nhớ tri ân, trao tặng nhau những
câu chúc tốt lành đầu xuân, trở về nguồn cội tìm lại chút hơi ấm năng
lượng của tình thương gia đình đằm thắm, mà đôi khi chúng ta bỏ quên vì
mãi chạy theo đồng tiền bát gạo trong cuộc sống mưu sinh nơi viễn xứ.
Khi đã học hiểu đạo lý, chúng ta cảm nhận sâu sắc về bản chất của
cuộc đời, từ đó mới biết cách đối nhân xử thế, đắc nhân tâm. Tình thương
nhân ái giữa người và người quan trọng hơn tiền bạc, của cải vật chất.
Khi chúng ta làm được điều gì mang lại lợi ích cho ai, trong lòng mình
cảm thấy hoan hỷ, thanh lương, mát mẻ. Chúng ta xây đắp hạnh phúc của
mình bằng những việc làm lợi ích cho mọi người, lấy cái vui của người
khác làm cái vui của mình, không chà đạp lên hạnh phúc của người khác để
mưu cầu lợi ích cho riêng mình. Đó là đạo lý, là đạo đức căn bản làm
người.
Cuộc sống an vui đích thực không phải là sự tìm cầu, đuổi bắt mà biết
dừng lại tâm dong ruổi, dành thời gian quay về tìm lại sự bình yên nơi
tâm thức để biết được chân nghĩa của cuộc sống, ta là ai, là gì trong
cuộc đời này? Hiểu được điều đó, chúng ta biết được cái nào là giả để
không còn đam mê chấp trước, cái gì là thật phải cố công nhìn nhận cho
tận mặt. Khi cái giả được phanh phui, đồng thời cái thật cũng sẽ thấu
triệt. Như vậy, giữa cái thật và cái giả, cái chân và cái ngụy, giữa cõi
bờ hư thực mà chúng ta khéo nhận ra, khéo sống lấy. Chính khi ấy, chân
trời hạnh phúc vĩnh hằng được mở ra, mùa xuân vĩnh cửu miên trường hòa
trong ánh đạo nhiệm mầu được hiển bày ngay thực tại. Hạnh phúc chân thật
không thuộc về cảm giác, cảm thọ. Niềm vui đạo lý là cái mênh mông phi
thời gian, vượt ngoài suy luận hiểu biết, là trạng thái bình an lành lặn
của tâm hồn, không bị trói buộc bởi tập nhân phiền não, đó là Niết bàn (Nirvãna). Cái đó, tự mỗi chúng ta phải chiêm nghiệm, thực chứng bằng chính công phu tu tập nơi tự thân.
Một mùa xuân nữa lại về, mọi người trao tặng nhau những lời chúc tốt
đẹp, may mắn, bình an phúc lạc hơn trong năm mới. Người học Phật chúng
ta cũng chúc nhau bằng những lời đạo lý để nương đó tu tập trong năm mới
được tinh tấn, dõng mãnh hơn, bớt những mê mờ tăm tối, không tạo nghiệp
dữ, sống có lợi cho mình, cho người, xây dựng xã hội hướng về
chân-thiện-mỹ. Kính chúc tất cả chúng ta an trú vững vàng trong đại
dương chánh pháp, trưởng thành trong đạo lý, ngay nơi thường tục mà
khuếch đại tự do, ở trong thói thường mà tìm ra lẽ sống đích thực, “hòa quang đồng trần” trong ánh sáng giác ngộ của mười phương chư Phật.
Thiền Viện Trúc Lâm Viên Ngộ
Phan Rang - Ninh Thuận.
Xuân Tân Mão - 2011.