Tính Đặc Thù Của Ngày Rằm Tháng Bảy
Là người Việt Nam, không ai không biết đến ngày rằm tháng bảy, nhưng không phải ai cũng hiểu để quan tâm sâu sắc đến ngày này.
Hãy
nói đến tính đặc thù của ngày này, trong văn hóa, trong truyền thống
lâu đời của người Việt ta mới thấy sự cần thiết mà mỗi người Việt nam
sống trên đất nước này, từ già đến trẻ đều phải biết để quan tâm.
Trong
rất nhiều các loại hình văn hóa, từ văn hóa lễ hội dân gian đến các tác
phẩm văn học và nếp sống sinh hoạt tôn giáo, trước hết, ta thấy ngày
rằm tháng bảy trở thành ngày văn hóa tín ngưỡng thiêng liêng của dân tộc
Việt.
Ta
không có thông tin chính xác để biết người Việt trước 2000 năm làm gì
khi mùa thu về và ngày rằm tháng bảy có nếp sống sinh hoạt thế nào?
Nhưng ta biết chắc chắn rằng Phật giáo là tôn giáo lâu đời, từ đầu kỷ
nguyên Tây lịch khi truyền vào đất nước ta đã có nếp sinh hoạt rất hệ
trọng vào ngày rằm tháng bảy.
Ngày
rằm tháng bảy là thời điểm kết thúc ba tháng An cư Kiết hạ của chư
Tăng. Những người nguyện sống một cuộc đời theo lời dạy của Bụt, làm kẻ
xuất gia tu hành thảy đều tuân thủ quy chế An cư Kiết hạ mà Bụt chế
định.
Truyền
thống từ thời Bụt còn tại thế quy định, đến tháng tư vào hạ, (theo thời
tiết xứ Ấn thì lúc đó là mùa mưa) chư Tăng phải ở cố định một chỗ mà
không được đi lại ra ngoài khuôn viên nơi mình ở. Ba tháng là thời điểm
kể từ 15 tháng 4 đến 15 tháng 7. Quý thầy sinh sống dưới thời Bụt thường
theo Bụt đi khất thực để xin ăn hằng ngày đúng vào giờ Ngọ. Họ ăn ngày
một bữa. Phần lớn thời gian còn lại trong ngày ưu tiên cho việc thực
hành thiền định và trao đổi học hỏi với nhau hay ôn tụng lời Bụt dạy
trong ngày, ghi nhớ cho kỹ để thực tập. Trong ba tháng đó thì không được
đi lại khất thực. Khất thực còn gọi là Trì bát có nghĩa là cầm bát đi
xin ăn. Đi lại trong mùa mưa lúc côn trùng sinh nở sẽ dẫm đạp bước chân
mình lên chúng. Hơn nữa, chư tăng đi thành đoàn sau lưng đức Phật gồm
1250 vị, số lượng quá đông như thế tất sẽ dẫm chết nhiều côn trùng cùng
lúc.
An
cư, sống ở yên một chỗ để có thời gian thúc liễm sự tu tập của mình
được tinh tiến hơn. Có thời gian tinh chuyên để thực tập sâu hơn những
pháp môn được học hỏi qua lời dạy của Bụt. Sau ba tháng, lễ Giải hạ Tự -
Tứ của Đại đức Chúng Tăng đúng nhằm vào ngày Rằm tháng bảy. Tự là mình,
Tứ là nêu lên. Là tự mình khẩn thiết đối trước một người nào đó để nêu
lên một vấn đề. Ở đây, người tu sĩ sau ba tháng thúc liễm tu tập, biết
là có tinh chuyên nhưng không thể không có những giải đãi vụng về hay
yếu kém lỗi lầm trong con đường hành đạo. Vì vậy vấn đề được nêu lên ở
đây là xin người khác chỉ cho mình những lỗi lầm mà mình đã có trên
đường tu tập để ta có thể sửa đổi tiến bộ nhanh hơn.
Một
vị tu sĩ thực hành trong lễ Tự Tứ, là quỳ xuống trước một vị khác, chắp
tay thành kính hướng về vị đó, cầu xin vị đó vì thương xót mà chỉ cho
mình những lỗi lầm có thể mình đã phạm vào mà không hay biết. Đó là thái
độ thành thật cầu tiến trên đường tu của vị Tu sĩ thực hành lời Bụt
dạy.
Tôi
nghĩ, dù có đang là người phàm Tăng, thì chính nhờ cái hành động đó mà
đoàn thể người tu sĩ vẫn còn biết bao tốt đẹp đáng làm chỗ nương tựa cho
thế gian ngưỡng mộ. Đời bạn dù yếu kém đến đâu, có lỡ lầm đến đâu,
nhưng chỉ cần một lần trong đời bạn có thái độ cầu tiến đó thôi, tôi
nghĩ bạn đáng được kính nể. Những người tu sĩ sau mỗi mùa An cư đều đã
thực tập cầu tiến bằng thái độ đó. Thật đáng kính trọng hành động đó.
Mong rằng hành động này được truyền đi rộng rãi trong loài người ngày
hôm nay.
Đó
là ngày Tự tứ. Tầm quan trọng là thế đối với sự phát triển nhân cách
người tu tập. Đức khiêm cung của bạn sẽ trưởng thành nếu bạn có tâm thái
đó trong khi hành xử. Nhân cách của đấng trượng phu quân tử muốn sửa
mình. Chính do thấy học trò của mình hành xử như vậy để tu tập mà Bụt
rất hoan hỷ. Ngày đó được mệnh danh là ngày Bụt Hoan hỷ.
Khi
ta đi gặp ai hay đi cần việc gì mà gặp khi người đó đang vui vẻ thì còn
gì bằng. Cầu nguyện trong ngày Bụt Hoan hỷ, chư Tăng tự tứ, ngày mà
trong nhân gian biết bao kẻ sĩ giờ đấy bằng cái tâm chí dũng mãnh, quyết
liệt cầu tiến tu trên con đường giải thoát. Tâm tưởng đó mang một từ
trường năng lượng thuần khiết có công dụng làm lành những vết nứt hận
thù, chiến tranh, oán thán của nhân gian. Lửa sân hận si mê tham đắm của
của cuộc đời chỉ được dập tắt hay điều hòa bởi từ trường đó mà thôi.
Có
cha mẹ nào không vui khi con cái mình biết cầu tiến, biết tôn trọng
trân quý nhau, chỉ dẫn cho nhau những lầm lỗi, những vụng dại để sửa đổi
tiến bộ. Chính tâm nhu nhuyến được ngợi ca khi hành đạo phụng sự chúng
sinh là tâm phát xuất từ đó. Nhu nhuyến là cái tâm mềm mại uyển chuyển
nhẹ nhàng, lanh lợi biến thái khôn lường thích ứng với tất cả mọi người
mọi hoàn cảnh để làm lợi ích chúng sanh. Tâm đó huân tập từ đời sống
những khất sĩ sống đời đạm bạc kia mà hình thành.
Sau
khi Bụt thành đạo và đi truyền bá giáo pháp cho nhân gian, Ngài đã thâu
nhận những đệ tử, những học trò muốn sống theo nếp sống người khất sĩ
như Ngài. Tăng đoàn là bốn chúng đệ tử của Ngài từ đó hình thành. Bốn
chúng là những thành phần: Người xuất gia nam và người xuất gia nữ,
người tại gia nam và người tại gia nữ. Nếp sống An cư chủ yếu là cho hai
giới trên. Đời sống An cư kiết hạ cũng hình thành từ đó đến nay. Sống
tập trung thúc liễm nhau cùng tiến tu quả thật đã mang lại sức mạnh lớn
cho Tăng đoàn của đệ tử Bụt. Sức mạnh thực sự của đạo Bụt là sức mạnh
phát sinh bởi đạo đức thực chứng. Đạo Bụt không chú trọng lắm đến tổ
chức như các tổ chức thế tục khác. Ta có thể nói, sức mạnh tổ chức không
phải là sức mạnh của sứ mạng Phật giáo. Chính vậy mà người tu hành chú
trọng đến mùa An cư ba tháng.
Khi
một người hiểu đạo hỏi về nguồn gốc một vị tu sĩ, điều họ muốn biết hơn
hết là thầy đó thuộc về một trung tâm tu học nào, chứ không phải thuộc
về tổ chức nào. Ta hãy lưu ý đến điều đó khi tiếp cận để chọn một vị
thầy hướng dẫn tâm linh cho mình bước vào đạo. Một trung tâm tu học mới
chuyên nhất thực tập một pháp môn tu học. Ta giác ngộ và giải thoát nhờ
ta nắm vững các pháp môn tu học. Không ai giác ngộ nhờ theo một tổ chức
bao giờ.
Trở
lại ý hướng trên, ta thấy Ngày Rằm Tháng Bảy kết thúc mùa an cư là ngày
quan trọng bậc nhất xét về tính chất linh thiêng tụ hội năng lượng khí
lành của người có nếp sống Đạo Hạnh trong Phật giáo.
Ban
đầu Ngày Rằm Tháng Bảy là vậy trong đời sống của người tu theo Đạo Bụt.
Nhưng chính do tính chất thiêng liêng và sức mạnh tập thể của ngày này
mà Bụt giới thiệu cho Ngài Mục kiền Liên biết để nhờ Đại đức Chúng Tăng
chú nguyện siêu thoát cho mẹ mình.
Tích
truyện kinh điển đạo Phật còn truyền lại đến nay sâu rộng trong các
truyền thống phật giáo Bắc tông, không ai không biết đến Vu lan báo hiếu
của ngài Mục Kiền Liên. Chuyện kể rằng, sau khi tu hành chứng được đạo
quả, ngài Mục Kiền Liên nghĩ nhớ tới mẹ mình. Dùng sức mạnh của tư tưởng
trong lúc thiền định để quán chiếu, Ngài biết được là mẹ đang chịu khổ
trong vùng tối tăm. Tình thương mẫu tử dâng trào, xót thương, Ngài nghĩ
đến chuyện đem cơm cúng mẹ. Đói khổ lâu ngày ở chốn tối tăm, giờ thấy
được bát cơm, lòng tham lại nổi lên trong tâm mẹ Ngài. Lửa tham đã biến
bát cơm hóa ra than hồng. Con nào không đau đớn khi tận mắt chứng kiến
cảnh đó của mẹ mình. Đau buốt tâm can, Ngài đem chuyện thưa lên với Bụt,
thắc mắc tại sao với khả năng tu chứng đạt được quả vị như mình mà
không thể cứu được mẹ? và do ác nghiệp gì mà mẹ mình phải chịu khổ cảnh
như vậy?
Phần
đông tâm lý chúng ta hay có thói quen ỷ vào sức mình. Nghĩ rằng, bằng
cách này hay cách kia, với khả năng của mình mình có thể làm được điều
mình muốn. Bát cơm đó cũng là tượng trưng cho của cải của những đứa con
cho rằng mình có của cải có thể làm vơi đi khổ đau của mẹ. Tâm tham
không trừ, của cải chính là nguồn phát sinh tranh đoạt hơn thua chiếm
hữu. Đói khổ, sự bức bách của nó không đến từ lý do thiếu cơm thiếu áo.
Đói khổ, sự hành hạ của nó, tác nhân gây ra lại ở nơi tâm tưởng, nơi
tinh thần.
Kinh
nghiệm này cho ta rút ra một kết luận, đối với người đã khuất, độ thoát
cho họ không phải là cúng mâm cơm cho đầy hay đốt cho nhiều giấy tiền
vàng. Nếu thế Ngài mục Kiền Liên đã làm giỏi hơn chúng ta, vì chính Ngài
đã có kinh nghiệm trực tiếp bằng tu chứng đạo quả về thế giới âm phủ
nơi mẹ mình đang sống. Cái hiểu biết tột cùng mà Ngài nhận chân được
chính là nhờ sức tu tập của tập thể chúng tăng trong khi An cư mới có
thể độ thoát cho tội khổ của mẹ mình. Nhà Ngoại cảm nào biết rõ hơn thế.
Người mờ mịt về cái hiểu biết này trong văn hóa Đạo Bụt mới hành xử với
Tiên Tổ, với người trong âm giới mà vẫn nặng đồng bóng giấy vàng tiền
mã. Ta hãy nghe giải đáp sau đây của Bụt Thích Ca Mâu Ni.
Giải
đáp thắc mắc của ngài Mục Kiền Liên, Bụt giới thiệu thế này: “Dù Ông có
chứng được lục thông, cũng không thể cứu được mẹ ông. Khi sinh tiền mẹ
ông đã làm nhiều tội ác như không tin nhân quả, hủy báng Phật pháp, phá
hoại chúng tăng.v.v chính do tội nặng đó mà đọa lạc chìm sâu vào vùng
khổ ải. Ta chỉ cho ông đây, đến ngày rằm tháng bảy khi chư Tăng tự tứ,
ông hãy đem những thứ cần dùng cúng dường chư tăng, rồi nhờ chư tăng chú
nguyện cho mẹ ông. Chỉ có cách đó mẹ ông mới được thoát khỏi cảnh khổ
nơi ngục tối”.
Cụm
từ Ngày Rằm Tháng Bảy Vu Lan Báo hiếu có ra từ đó cho đến nay. Vậy là
đã hơn 2600 năm hiểu được ý nghĩa đó mà ai ai tin Bụt cũng noi theo
truyền thống trên, tận tâm báo hiếu.
Hiểu
sâu hơn về bản chất, ta có thể nói: Đạo Bụt là đạo Hiếu. Bụt là bậc Đại
hiếu. Do thế hạnh của Bụt là hạnh hiếu. Chúng ta dù có tận tâm báo đền
ân đức cha và mẹ đến đâu cũng không thể là bậc Đại hiếu. Ta đem cái tâm
phàm phu chúng sinh mà đền trả. Tâm đó chưa vượt thoát được ràng buộc hệ
lụy của sinh tử, tham đắm u mê bởi tối tăm của bản ngã nên làm sao ta
cứu được mẹ cha ta khỏi khổ ải tử sinh trầm luân thống khổ.
Bụt
đã vượt thoát tử sinh, nên hiếu mà Bụt đền trả là đem cái chân lý nhiệm
mầu có khả năng thức tỉnh giới thiệu đến cho cha mẹ tu tập. Bằng từ tâm
của một vị Bụt, ngài hướng tất cả trường năng lượng tình thương để nâng
đỡ cho cha mẹ cảm thấy bình an trên đường thực hành đạo mầu. Nhờ thế
cha mẹ dễ đạt đến tinh tiến, nỗ lực sớm chứng nghiệm được đạo quả. Khi
không còn hệ lụy buộc ràng trong bỉ thử nhân ngã hẹp hòi thì mẹ cha đâu
bị bức khổ bởi tâm chấp ngã nhỏ nhen đọa đày. Hiếu, như thế là người con
đã được trả xong.
Chỉ
ở nơi một vị Bụt mới gọi là trả hết được Hiếu Nghĩa ân đức với mẹ cha.
Chúng sanh phàm phu việc sanh tử của mình chưa giải quyết, không thể độ
thoát cho mẹ cha, chỉ là hết lòng thực hành Hiếu hạnh để báo đức ân thâm
của cha mẹ trong muôn một mà thôi. Ta có thể là người con Chí hiếu. Tâm
báo ân cha mẹ của Bụt, có khả năng độ thoát sanh tử cho cha mẹ mới gọi
là Đại Hiếu. Tâm Đại hiếu đó còn là cái tâm hướng đến tất cả chúng sanh
trong tứ sinh lục đạo mà quán xét cứu giúp, độ thoát.
Đạo
giải thoát, lấy chúng sinh làm chất liệu nuôi lớn hạt giống Bồ đề tâm.
Tâm Bồ đề là cái tâm quyết chí cầu thành Phật chứng đắc đạo quả giải
thoát. Mà chúng sanh đó là ai? Bụt dạy: “Sữa mẹ mà ta uống suốt trong
luân hồi nhiều hơn nước bốn biển”, Và: “Này các thầy, không thể tìm ra
được một chúng sanh nào suốt trong chiều dài luân hồi này mà không từng
một lần làm cha hay mẹ chúng ta”. Từ đó, hiếu với cha mẹ tức là hiếu với
chúng sinh. Vì ít nhất trong vô lượng vô số chúng sanh đó, bất kỳ chúng
sanh nào cũng đã từng một lần làm cha và mẹ ta.
Hiếu
với chúng sanh trở thành hiếu với cha mẹ không khác. Vì vậy ta có định
nghĩa: Đạo Bụt là Đạo hiếu. Người tu xem chúng sanh là đối tượng nuôi
lớn Tâm Từ Bi. Đạo Bụt đối với cuộc đời xem hết thảy chúng sanh là bạn.
Người học Đạo giải thoát tuyệt đối không bao giờ xem ai là thù. Qua đó
ta có thể hiểu tại sao Đạo Bụt đề cao đời sống Hiếu hạnh. Thấu triệt
được điều đó, nhân gian Việt ta mới có câu: “tu đâu cho bằng tu nhà, thờ
cha kính mẹ mới là chân tu”. Ông bà ta đã hiểu và đã định nghĩa về thế
nào là chân tu cho ta rồi đó.
Phụng
sự cho chúng sanh trở thành ý nghĩa phụng sự cho cha mẹ chúng ta. Ta
đâu có so đo tính toán khi vì cha và mẹ. Quán chiếu như thế người con có
hiếu tu tập đạt đến Ba La Mật khi thực hành Bố thí phụng sự chúng sanh.
Đến đây ta có thể hiểu sao gọi Hiếu Tâm là Phật Tâm.
Vu
Lan mùa Báo hiếu trở thành vô cùng trọng đại trong ý nghĩa Phật Đạo.
Hình ảnh người con Mục Kiền Liên cứu mẹ là hình ảnh của người Đại Hiếu.
Tôn giả Mục Kiền Liên chứng được quả vị A La Hán và có Thần thông đệ
nhất trong hàng đệ tử Bụt.
Từ nhiều ý nghĩa linh thiêng và lớn lao kia mà Ngày Rằm Tháng Bảy trở thành ngài lễ trọng đại của Phật giáo.
Đạo
Bụt đã truyền vào Nước ta 2000 năm nay. Ảnh hưởng sâu đậm vào đời sống
tâm thức Việt. Cách người Việt hành xử và tư duy trong tương quan đời
sống nói lên điều đó. Tiếc thay là gần đây có những thế hệ sinh ra và
lớn lên không được kế thừa nên cứ ngỡ mình không thuộc về nền văn hóa
lâu đời của Đạo Bụt Việt.
Tôi
tin với xu hướng nhìn nhận lại nhiều giá trị truyền thống như hiện nay
chắc dần dần nhiều thành phần xã hội và nhiều thế hệ sẽ đi đúng vào dòng
chảy Văn hóa Việt Phật.
Theo
Âm lịch tháng bảy là tiết Trung nguyên, mùa Thu. Tính chất thời tiết
của mùa này đẹp nhất trong 4 mùa. Không quá rực rỡ như mùa xuân sinh sôi
nẩy nở của vạn vật. Không lạnh lẽo như Đông về hay khô nóng của mùa Hạ.
Thu về, tiết trời dịu hẳn, không gian như mở rộng và đằm thắm sáng
trong hơn. Sông núi cũng trầm mặc sâu lắng hơn. Cái vẻ thiên nhiên của
mùa Thu khoác lên vạn vật như ẩn như hiện cái gì sâu lắng mà xa xăm làm
người ta phải trầm ngâm khi thưởng ngoạn đất trời. Người xưa cũng chọn
tiết Thu để hoài niệm, để nói tiếng nói của lòng mình chưa dứt khôn
nguôi cái mong manh thực hư ranh giới đôi bờ sống chết giữa hai cõi âm
dương. Nỗi niềm trước được mất bại thành rồi ra biết đâu cũng chỉ là bèo
mây.
Ngày
rằm tháng bảy ngày xá tội vong nhân. Tôi thích giá trị của cụm từ này
trong truyền thống văn hóa Việt Nam mỗi khi mùa Thu về chuẩn bị cho Lễ
Vu Lan Báo hiếu. Từ ý nghĩa báo đáp ân đức đền trả hiếu nghĩa của những
phận người làm con đối với mẹ cha mang tinh thần đạo Bụt trở thành ngày
“xá tội vong nhân” trong quan niệm người Việt. Vì sao, vì cái giá trị
nào mà Ngày Rằm Tháng Bảy trở thành Ngày Xá Tội cho con người lẫn Vong
Linh?
Chúng
ta phải biết điều này: sau khi ngài Mục Kiền Liên nghe lời Bụt dạy, mời
thỉnh toàn thể Đại đức chúng Tăng thọ thực và cúng dường trăm món cần
dùng trong ngày chư Tăng tự tứ và chư Tăng đã chú nguyện cho mẹ Ngài;
nhờ công đức này của người con hiếu (Ngài Mục Liên) mà người mẹ Thanh Đề
đang đọa đày trong ngục tối A tỳ Vô gián được thoát khỏi địa ngục. Cũng
trong ngày đó, sau khi đã cầu nguyện xong, ngài Mục Kiền Liên dùng
thiên nhãn thông quán xét trong địa ngục mới hay cũng trong ngày đó bao
nhiêu người đã từng chịu khổ như mẹ mình trong địa ngục thảy đều được
thoát nghiệp Oan khiên rời khỏi địa ngục sanh về thế giới an lành.
Ông
cha ta nhận ra được giá trị trên một cách tâm đắc, đã nhìn thấy sức
mạnh vi diệu qua sự chú nguyện, tạo thành trường năng lượng lành từ thế
giới người tu hành trong Ngày Rằm Tháng Bảy, Tự tứ, Ngày Bụt hoan hỷ. Từ
đó mà bao nhiêu những gì vương vấn day dứt, trói buộc oan trái, cưu
thù do nghiệp lực con người tạo ra, như chiến tranh, hận thù, oan ức bởi
chết trẻ, chết nạn nơi sông nước hay rừng sâu biển cả.v.v nhiều vô kể
trong kiếp sống loài người đều được “giải quyết” trong Mùa Vu Lan Xá Tội
Vong Nhân. Mùa của hoài niệm và tri ân báo ân.
“Tiết Tháng bảy lập đàn giải thoát
Nước tịnh bình rưới hạt dương chi
Muôn nhờ đức Phật từ bi
Giải oan cứu khổ hồn về Tây phương”
Nhân
gian cũng theo đó mà thường hay lập đàn siêu độ vong linh vào ngày rằm
tháng bảy. Đó là cõi âm. Người sống thế nào? Bậc vua chúa trong các
triều đại trước thường giảm án tha tội cho tù nhân và phóng thích họ vào
ngày rằm tháng bảy.
Mùa
Vu lan, Ngày Rằm Tháng Bảy người Việt Nam đã tạo ra một truyền thống vô
cùng tốt đẹp, đó là người ta dễ cảm thông, tha thứ bao dung cho nhau
những lỗi lầm vụng dại hay hiểu lầm oan khúc của nhau. Vì sao, vì người
Việt biết, đến Âm ty Ngục tốt đầu trâu mặt ngựa còn buông tha hình phạt
cho tội nhân, hà huống là người với người, lại là người trong một nước.
Âm dương chung nỗi lòng, sống chết gần gang tấc, vì ta sống trong một
nước chiến tranh triền miên với giặc phương Bắc để sống còn. Ta không
thương ta, Bầu ơi không thương lấy Bí cùng, thì đợi người phương Bắc đến
đây thương ta sao. Đó là cách thống nhất lòng người bằng niềm tin Phật
đạo. Là cầu nối niềm tin cõi lòng người con Việt biết Tôn Sư Trọng Đạo.
Ngày
Rằm Tháng Bảy, như vậy đã trở thành ngày lễ trọng đại của Dân tộc Việt.
Quên đi ngày Rằm Tháng Bảy, hay không quan tâm đến Ngày Rằm Tháng Bảy
đúng mức là đánh mất đi cái cầu nối quan trọng nối hai cõi âm dương,
sống chết, nối người với người trong sức mạnh văn hóa Dân tộc bằng đức
tin tâm linh. Lịch sử Dân tộc ta không có ngày nào linh thiêng và mang
tầm vóc lớn như thế. Vua chúa Vương quan đại thần không mở tiệc mừng vui
thú giết hại sinh vật trong những ngày như thế. Còn nay thì sao? Ta có
gì để kiêng kỵ giữ mình?
Sức
mạnh và độ dày văn hóa Đạo Bụt ảnh hưởng sâu đậm vào nếp sống, nếp
nghĩ cha ông ta xưa là vậy. Ngày Rằm là ngày thực hiện hòa bình thực sự
của người Việt. Người Việt không ăn thịt hay uống rượu giết hại sinh vật
trong những ngày rằm hay 30 mùng 1. Văn hóa tâm linh đó đã chảy trong
huyết quản các thế hệ người Việt Nam ta qua hàng ngàn năm nay. Đó đích
thực là văn minh. Nhà cao cửa rộng, tiện nghi vật chất sung mãn, nhưng
mỗi người mỗi cõi lòng khép kín, không có thời giờ và khả năng mở lòng
mình với tha nhân, hòa đồng và chung vui, phải chăng là đã lãng phí thời
gian và sinh lực sống tâm linh kiếp người.
Quay
về và tìm hiểu sâu những giá trị tâm linh của cha ông ta xưa, là khơi
mở suối nguồn huyết thống, là nhìn nhận những giá trị không thể thiếu
làm căn bản cho đời sống con người ngày hôm nay đang quay cuồng theo đà
sống thác loạn thúc đẩy lòng tham hưởng thụ.
Bạn
bận rộn gì một ngày để hối hả ra khỏi nhà mà không kịp dâng một nén
hương lên ban thờ nhà mình trước khi đi làm? Bạn sợ thiếu chất, bạn gấp
gáp cung cấp dinh dưỡng gì vào cơ thể trong hai tuần qua mà không đủ sực
nhớ máu xương sinh vật đã hy sinh trong bữa ăn mỗi ngày? Nếp sống đề
cao tâm linh và tình thương muôn vật đã làm cho người Việt biết thức
tỉnh dừng lại sau mỗi nửa tháng để ăn chay và thực hành hạnh tốt phóng
sinh.
Với
tất cả tính chất trên, mong mọi người hiểu và hãy bày tỏ lòng mình đến
tổ tiên, đến các bậc cha mẹ, các bậc ân sư, ân tình bè bạn…đến người
thân hay kẻ chẳng may vương víu nghiệp lực buộc ràng vào nhau mà oán
ghét, khi mùa Vu - Lan “xá tội vong nhân” về; gởi niềm thương tưởng, cầu
nguyện tri ân báo đáp đền trả đến tất cả mọi người.
Vu
Lan năm nay, năm Tân Mão, 2011, Phật lịch 2555 đang về, ngồi viết những
hồi tưởng đẹp đẽ về Ngày Rằm Tháng Bảy Bông hông cài áo, chư Tăng chuẩn
bị lễ Tự tứ, nhà nhà ăn chay phóng sinh, lập đàn siêu độ đang sống lại
trong tôi. Đẹp quá đi thôi Dân tộc có bề dày Văn hóa ngàn năm tâm linh
Đạo Bụt.
Viết tại Am Thụy Ứng
Tiết đầu Thu năm Tân Mão
Thích Tâm Hiêp