Xuất hiện trong nhiều ngữ cảnh ở kinh tạng, bốn pháp này chuyên chở
nhiều tầng nghĩa phong phú, sinh động, từ thấp lên cao. Trong khuôn khổ tìm về
tính đơn nghĩa, gần gũi thiết thân với đối tượng được chúc phúc, chúng tôi thử
khảo sát lời cầu chúc trong tầng nghĩa thực tiễn, đời thường.
Cần phải thấy rằng, sau khi nhận lễ phẩm, hoặc thọ
thực xong, việc hồi hướng công đức, thuyết giảng hoặc chúc phúc cho thí chủ là
trách vụ cần làm của người xuất gia. Sau khi thọ trai xong, Đức Phật thường tùy
theo điều kiện nhân duyên mà thuyết giảng một bài pháp, hoặc đôi khi Ngài chỉ
yên lặng chú nguyện. Kinh ghi: Khi ăn xong, Ngài ngồi im lặng một lát nhưng
không để quá thì giờ nói lời tùy hỷ (công đức). Ngài nói lời tùy hỷ (công đức),
không chỉ trích bữa ăn ấy, không mong bữa ăn khác; trái lại, Ngài với pháp
thoại khai thị hội chúng ấy, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ. Ngài
sau khi với pháp thoại khai thị hội chúng ấy, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm
cho hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi(2).
Truyền thống chúc phúc cho thí chủ này được chư
Tăng tiếp nối mãi đến hôm nay. Ở đây, đối tượng được chúc phúc thường phong phú
và đa dạng, có thể là hàng Phật tử thâm tín Tam bảo và cũng có thể là người
bước đầu phát tâm. Thiển nghĩ, lời cầu chúc ở đây nên chăng là những điều dễ
hiểu và thực tiễn, đời thường, thì đối tượng mới có thể dễ dàng thấu đạt, tin
hiểu.
Sống
lâu
Một thân thể mạnh khỏe, trường thọ là phước báo
của nhiều kiếp quá khứ và nỗ lực trong hiện tại. Sống trong đời, không phải ai
cũng hội đủ phước báo ấy. Ở đây, tiêu chuẩn sống lâu phải đi kèm với tiêu chí
khỏe mạnh và sống có ích cho tha nhân. Vì lẽ, sống lâu nhưng sống vật vờ, bệnh
tật liên miên và lụy phiền mọi người thì chưa phải là sống lâu đúng nghĩa.
Hơn ai hết, chính bản thân Đức Phật, Ngài đã nhận
thức rất rõ, tất cả các loài hữu tình do ăn uống mà an trú(3). Nhờ ăn uống mà tác thành nên thân thể tráng kiện.
Không thể có được một sự thông tuệ, minh mẫn với một thể xác bạc nhược, yếu
đuối và nhiều bệnh tật. Hãy ăn uống cho thích nghi(4) là một trong những yếu tố tạo nên một thân thể
tráng kiện, mạnh khỏe. Chiêm nghiệm thật sâu về cuộc đời Đức Phật, chúng ta
thấy, với điều kiện sống khắc nghiệt, bấp bênh của một du sĩ hành khất, đôi khi
Ngài cũng phải chịu đói và khát; mặc dù vậy, sự kiện thọ đến 80 năm của Đức
Phật(5) là một sự khẳng định vững chãi về việc giữ gìn và
bảo hộ sức khỏe trong thực tế đời thường.
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ,
sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng,
ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời và sống phạm hạnh(6). Sống
thì phải hoạt động. Có những việc đáng làm thì phải làm và làm ở mức độ vừa
sức, phù hợp với biệt nghiệp của riêng mình. Một con kiến không thể cõng cả
Thái Sơn. Cũng vậy, tùy theo bối cảnh và điều kiện sống của mỗi người mà tự
chọn cho mình một công việc phù hợp. Nghiên cứu của nhiều ngành khoa học ngày
nay đã bảo chứng rằng, hoạt động cơ thể ở hai mặt thể chất và tinh thần trong
một mức độ vừa phải, thì sẽ kéo dài tuổi thọ.
Bên cạnh đó, biết làm chủ sở thích ăn uống của
mình là một phương cách bảo hộ sức khỏe tối ưu. Bệnh tùng khẩu nhập là
một chân lý luôn đúng trong trường hợp này. Ăn các đồ ăn tiêu hóa còn có
nghĩa là tiếp thụ thức ăn phù hợp với cơ thể của mình. Ăn vì sức khỏe chứ không
phải vì thỏa mãn vị dục. Vì có những thức ăn tuy ngon miệng nhưng không phù hợp
cho sức khỏe. Chiêm nghiệm về cách ăn của Đức Thế Tôn để có thể thấy được thức
ăn sẽ dễ dàng tiêu hóa như thế nào: Ngài ăn đồ ăn vừa phải (với cơm), không
có bỏ miếng cơm, chỉ lựa miếng thức ăn. Tôn giả Gotama đưa miếng cơm quanh
miệng hai ba lần rồi mới nuốt, không hột cơm nào được vào trong thân không bị
nghiến nát, và không một hột cơm nào còn lại trong miệng trước khi ăn miếng cơm
khác. Tôn giả Gotama không thưởng thức vị ăn khi ăn đồ ăn, không thưởng
thức lòng tham vị(7). Không vì thỏa mãn vị dục
là cách ăn tạo nên một sự sung mãn cho sức khỏe, tuổi thọ.
Điều kiện kế tiếp của trường thọ là việc đi lại
vừa phải và phù hợp. Nếu du hành không phù hợp, không thích nghi, sẽ gặp nhiều
nguy hiểm đến tính mạng. Kinh ghi: Du hành đường phố phi thời có sáu nguy
hiểm: Tự mình không được che chở hộ trì, vợ con không được che chở hộ trì, tài
sản không được che chở hộ trì, bị tình nghi là tác giả các ác sự, nạn nhân các
tin đồn thất thiệt, tự rước vào thân nhiều khổ não(8) Đi
lại trong thời điểm nào thì an toàn và tốt cho sức khỏe, đó là điều còn có ý
nghĩa thời sự trong thời đại hôm nay. Du hành phải thời còn có nghĩa là
tham gia các hoạt động giao du giải trí phải đúng lúc đúng thời, với một mức độ
vừa phải thì sẽ tốt cho sức khỏe tinh thần. Và, điều kiện cuối cùng để gia tăng
tuổi thọ theo Kinh Tăng Chi là phải sống phạm hạnh. Phạm hạnh
có nhiều tầng nghĩa, trong ngữ cảnh này, phạm hạnh tức là không được buông
lung, phóng túng, đồng nghĩa với việc nghiêm chỉnh giữ gìn các chuẩn mực đạo
đức căn bản của con người. Theo Kinh Tương Ưng, không buông lung phóng
túng, thuật ngữ gọi là bất phóng dật, là một pháp có thể đưa đến chứng đắc
và tồn tại cả hai hạnh phúc: hạnh phúc đời này và hạnh phúc đời sau(9).
Ngoài ra, để gia tăng tuổi thọ còn có sự hỗ trợ của
phước lành ở đời trước hoặc đời này. Hai phước lành liên quan đến việc gia tăng
tuổi thọ, đó chính là phải biết phóng sanh và bố thí. Việc từ bỏ sát sanh,
tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm… là cơ sở của trường thọ được Phật
khẳng định rõ ràng trong Kinh Trung Bộ(10). Trong hệ thống kinh điển Bắc truyền cũng đồng
thời xác nhận: Đức Thế Tôn dạy, có hai lý do được thọ lượng lâu dài. Hai lý
do ấy là gì, một là không hại sinh mạng, hai là hiến cho ẩm thực(11). Ở
đây, phước báo bố thí có ý nghĩa rất lớn liên quan đến sự gia tăng tuổi thọ.
Trong Kinh Tăng Chi đã đưa ra hình ảnh, có hai đệ tử của Đức Thế Tôn
đồng tín, đồng giới và đồng trí tuệ nhưng một vị bố thí, một vị thì không; sau
khi mãn báo thân tuy được sanh vào Thiên giới, nhưng phước quả của hai người
vẫn khác biệt nhau, mà trước hết là khác biệt về thọ mạng(12). Do đó, muốn gia tăng tuổi thọ thì: Hãy bố thí
một cách hoàn bị. Hãy bố thí với tự tay mình làm. Hãy bố thí một cách có suy
tư. Hãy bố thí các đồ không phế thải(13).
Sắc
đẹp
Mặc dù bề ngoài chưa thể lột tả những đức tính căn
bản của một con người, tuy nhiên, trong những giao tiếp bước đầu, dáng vẻ bên
ngoài đóng một vai trò quan trọng trong các mối quan hệ giao tiếp. Hơn thế, với
nghiệp cảm cơ hữu của chúng sanh nói chung, cái đẹp bề ngoài cùng những phẩm
chất tương ưng bên trong, luôn được nhiều người nhọc công tìm kiếm và mong muốn
sở hữu. Sắc đẹp trong tính đơn nghĩa là cái đẹp thể hiện qua dung nghi, sắc
tướng. Ba mươi hai tướng đại trượng phu của Đức Thế Tôn được ghi lại trong kinh
Trường Bộ(14) là một trong những
dấu hiệu để khẳng định nhân cách của bậc xuất thế. Cũng từ những dấu hiện đặc
thù này mà Ngài đã thu phục được nhiều hạng ngoại đạo(15). Không những thế, một trong Bốn như ý đức
của một vị vua Chuyển Luân Thánh Vương là đẹp trai, khả ái, cử chỉ thanh
lịch, sắc diện tuyệt luân(16). Xem ra, sở hữu một nhân dạng dễ nhìn được xem là
kết quả của nhiều phước báo mà cá nhân đó tích tập, dành dụm không chỉ trong
một đời.
Muốn có được một nhân dạng dễ nhìn, theo kinh
Tiểu Nghiệp Phân Biệt(17) thì không nên phẫn nộ, bất bình, không nên quá nhiều sân hận trong tâm.
Một khuôn mặt từ hòa, không nhăn nhó cáu gắt, thì bao giờ cũng tạo nên một ấn
tượng tốt cho bất cứ ai dù chỉ lần đầu gặp gỡ. Nếu như khi sống trong đời luôn
giữ tâm không hận, không sân thì khi tái sanh trong loài người, người ấy sẽ
đẹp đẽ(18). Khẳng định
này có thể thấy rõ trong khảo nghiệm đời thường. Trên phương diện y thuật, nếu
không kiểm soát được giận dữ thì người đó sẽ đối diện với nhiều mối nguy hiểm,
thân mang nhiều tật bệnh và hệ quả dễ thấy trước mắt, đó chính là xấu xí, mau
già. Không chỉ dừng lại ở đó, để có được một dung sắc dễ nhìn, theo kinh
Tăng Chi, thì cần phải tu tập từ tâm. Trong mười một lợi ích khi tu tập tâm
từ thì sắc mặt trong sáng(19) là một lợi ích thiết thực. Không những thế, theo kinh Từ Bi(20), nếu
như thường xuyên duy trì năng lượng thương yêu rộng khắp, thì không những đem
lại cho bản thân một phước báo nhẹ nhàng, khinh an mà về sau sẽ hướng tới một
kết quả tối thắng.
Như vậy, sắc đẹp là sự tổng hòa của những yếu tố
cân đối về hình thể cùng những phẩm chất đạo đức, tinh thần. Theo Đức Phật, nếu
như bất cứ một ai biết từ bỏ sát sanh, chế ngự sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm,
biết tàm quý, có lòng từ, sống thương sót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh
và loài hữu tình(21), thì ở hiện đời sẽ
có được một dung sắc khả ái, và tương lai sẽ sở hữu những phước tướng tốt đẹp,
là cửa ngõ hướng về ba mươi hai tướng của bậc Đại nhân.
An
vui
Sống và tìm cầu hạnh phúc là khát vọng chính đáng
của con người. Được sống an vui hay an lạc, là một trải nghiệm của hoa trái
hạnh phúc. Hạnh phúc có nhiều cấp độ và tầng bậc khác nhau. Với người cư sĩ tại
gia, theo kinh Tăng Chi, có bốn thứ hạnh phúc căn bản(22), đó là: hạnh phúc do có được một chút ít của cải
vật chất; hạnh phúc khi đúng pháp thọ dụng những tài sản mà mình đang sở hữu;
hạnh phúc vì không mắc nợ bất kỳ ai; và hạnh phúc vì không có lỗi lầm, phạm
tội. Có thể thấy, nỗ lực tạo ra tài sản, tiền bạc và sử dụng chúng thông minh,
đúng pháp là điều được Phật cho phép, khuyến khích. Hơn đâu hết, Đức Phật thấy
rất rõ rằng, một đời sống quá chật vật, bức bối về điều kiện vật chất là cội
nguồn dẫn đến nhiều cấp độ bất an, khổ đau.
Ở đây, trong bốn thứ hạnh phúc vừa nêu, thì có ba
thứ hạnh phúc liên quan đến những điều kiện vật chất và một hạnh phúc liên quan
đến những giá trị tinh thần. Một đời sống hạnh phúc, an lành đúng nghĩa là sự
hội tụ của những điều kiện vật chất tối ưu cùng những thụ cảm tinh tế về tinh
thần. Vì lẽ, dù có một bữa ăn ngon, nhưng mang một tâm lý bực bội khi thọ dụng,
thì bữa ăn ấy cũng trở thành vô nghĩa. Cùng soi sáng nội dung này là câu chuyện
về sự an lạc giữa Đức Thế Tôn và Hoàng tử Hatthaka, người Alavì(23). An lạc là an lạc với những gì hiện có và phát
xuất từ tâm. Dù sống trong cung điện, điều kiện vật dục đủ đầy, nhưng trong tâm
đầy nhiệt não thì không thể nào chạm vào được an lạc, hạnh phúc. Đó là sự khẳng
định được rút ra từ đoạn hội thoại này. Ở đây, Đức Phật cũng thường lặp lại, sự
an lạc về những điều kiện sở hữu vật chất chỉ bằng một phần mười sáu(24) những an lạc, hạnh phúc về tinh thần. Đó là sự
khẳng định riêng có của Phật giáo, khi đề cập đến sự an lạc, an vui của người
cư sĩ nói chung.
Từ cơ sở cho rằng, hạnh phúc trên phương diện tinh
thần luôn cao hơn những giá trị hạnh phúc do vật chất đem lại, Đức Phật đã mở
ra một con đường dẫn đến hạnh phúc an vui, không lệ thuộc quá nhiều vào điều
kiện vật chất. Đó chính là niềm hạnh phúc, an vui do biết sống trong hiện tại.
Có thể, điều kiện vật chất của mỗi người có khác biệt nhau, nhưng một khi biết
sống với những gì hiện có, nói cách khác là biết an trú trong hiện tại, thì cảm
thụ hạnh phúc của mỗi người hoàn toàn khác biệt nhau. Theo Kinh Nhất
Dạ Hiền Giả, một khi biết sống quá khứ không truy tìm, tương lai không
ước vọng(25) thì hạnh phúc,
an vui sẽ tìm về ngay bây giờ và tại đây. Kinh Tương Ưng cũng đồng thời
xác tín: Không than việc đã qua/Không mong việc sắp tới/Sống ngay với hiện
tại/Do vậy, sắc thù diệu/Do mong việc sắp tới/Do than việc đã qua/Nên kẻ ngu
héo mòn/Như lau xanh rời cành.(26)
Cũng đề cập
đến vai trò của hạnh phúc tinh thần, theo khảo sát của Tổ chức News Economics
Foundation (NEF), thì chỉ số hành tinh hạnh phúc, viết tắt là HPI (27), căn cứ một phần vào cảm thụ về đời sống
tinh thần, sự thỏa mãn, hài lòng với cuộc sống hiện tại… để thiết lập chỉ số
hạnh phúc của một quốc gia. Tương tự như vậy, tuy khác biệt về lãnh vực đề cập,
nhưng khái niệm tổng hạnh phúc quốc gia (GNH) mà quốc gia Bhutan khởi xướng,
cũng đặt nặng mối liên hệ liên quan đến thụ cảm, hạnh phúc tinh thần.
Có thể thấy, tiến trình xây dựng một đời sống an
vui được đề cập rõ ràng trong nhiều kinh điển. Trong một liên hệ gần gũi với
thực tiễn, làm sao để có được an vui ngay bây giờ và tại đây, thì sự chia sẻ
thực tập của Yvonne Rand, một thiền giả, bạn của Thiền sư Tenzin Palmo(28) là một trải nghiệm mang tính tham khảo. Đó chính
là việc duy trì một nụ cười hàm tiếu trên môi. Pháp hành này tuy rất mực giản đơn
nhưng có khả năng đem lại hiệu quả lớn. Vì chỉ cần duy trì nụ cười hàm tiếu
trong ba hơi thở và thực tập nhiều lần trong ngày, có thể thực hành bất cứ ở
đâu, bất cứ hoàn cảnh nào… thì sẽ tạo nên một nguồn năng lượng an vui cho mình
và cho người.
Sức
mạnh
Mọi sự vật hiện tượng, kể cả tiến trình tu tập đều
cần năng lượng để chuyển biến, vận hành. Sức mạnh được hiểu ở đây chính là cơ
sở nền tảng, là năng lượng chi phối mọi lãnh vực của đời sống. Kinh Tăng Chi
liệt kê tám sức mạnh, trong đó có ba sức mạnh mang tích tích cực, đó là sức
mạnh của bậc Hiền trí là cảm hóa; sức mạnh của vị nghe nhiều là thẩm sát; sức
mạnh của Sa-môn, Bà-la-môn là nhẫn nhục(29).
Cuộc sống thì đa dạng, phức tạp và luôn luôn chuyển
biến, vận hành. Ở mỗi hoàn cảnh sống, con người thường vận dụng những sức mạnh
khác nhau. Có thể đó là sức mạnh quyền lực, có thể đó là sức mạnh đồng tiền, có
thể đó là sức mạnh sắc đẹp… Tuy nhiên, những sức mạnh vừa nêu đều có những bất
cập của chúng. Vì với tuệ giác của Đức Phật, những sức mạnh mà thế gian tôn
sùng, thực chất là biểu hiện của tham dục. Và đã là tham dục, thì luôn gắn kết
với bất hạnh, khổ đau. Ở đây, ba sức mạnh được nêu trong kinh Tăng Chi
như cảm hóa, thẩm sát và nhẫn nhục thực sự là những nguồn
năng lượng bất tận, có thể hướng đời sống con người vươn lên những phẩm vị tối
thắng.
Trước hết, cảm hóa ở nghĩa giản đơn, tức chuyển
hóa tha nhân bằng phương thức tình cảm. Ở nghĩa rộng nhất, đó là sự chuyển hóa
người bằng những phương cách tích cực và không gây tổn thương. Trong liên hệ đa
dạng của đời sống, đôi khi con người phải chấp nhận sống chung với những đối
tượng phức tạp, phải đối diện với nhiều vấn đề nan giải, dễ dàng nảy sinh những
bất đồng, những bạo động mất kiểm soát. Ở đây, dù trong bối cảnh nào, phương
thức chuyển hóa người bằng liệu pháp tích cực luôn được đánh giá cao. Xu thế
chuyển đối đầu sang đối thoại mà nhân loại ngày nay đang nỗ lực hướng về, là
một minh chứng nhỏ cho cho tinh thần đó. Muốn có được sức mạnh cảm hóa, cần
nhất là phải có tâm, có tầm và luôn hiện hữu Bồ đề tâm.
Sức mạnh kế tiếp là sự thẩm sát. Thẩm sát là suy
xét thấu đáo mọi vấn đề, là sự định tĩnh trong nhận thức để hiểu rõ đối tượng.
Năng lượng thẩm sát trang bị cho mỗi cá nhân một khả năng hiểu rõ đối tượng với
tất cả mọi giác độ. Từ sự hiểu rõ, hiểu đúng, ta sẽ hành xử phù hợp trước mọi
vấn đề mà cuộc sống đặt ra.
Sức mạnh thứ ba là sự nhẫn nhục. Nhẫn nhục là một
quán hạnh đặc thù trên lộ trình tu tập theo quan điểm Phật giáo. Dù bị hủy
nhục, bức hại hoặc gặp những khổ đau do hoàn cảnh bên ngoài đưa đến, nhưng tâm
vẫn an tịnh, không khởi lên tức giận, bất mãn, gọi là nhẫn nhục. Khi thực hành
hạnh nhẫn nhục đến độ thuần thục, hành giả không những vững chãi trước tám
ngọn gió đời như được, mất, khen, chê, dèm pha, tâng bốc… mà còn giữ tâm
bình thản trước những bức bách não hại của tha nhân. Trong thực tiễn đời
thường, hạnh nhẫn nhục tạo nên nguồn năng lượng vượt thoát khỏi mọi vướng vấp,
hệ lụy vốn là thuộc tính cố hữu của đời sống nhân gian.
Như vậy, sự kham nhẫn, khả năng suy xét thấu đáo và
sự chuyển hóa tha nhân bằng tình thương là ba sức mạnh mà con người có thể tự
trang bị cho mình trong đời sống này. Hiệu quả của ba sức mạnh này sẽ được kiểm
chứng ngay từ trải nghiệm đầu tiên của quá trình thực hiện. Có sức mạnh thì sẽ
thực hiện được nhiều việc trong đời. Một khi sở hữu những sức mạnh tích cực và
hữu ích thì hành trình tìm kiếm hạnh phúc sẽ được rút ngắn lại, và con người sẽ
từng bước nhận ra ý nghĩa sống đích thực của chính mình.
Cùng đề cập đến sức mạnh, kinh Tăng Chi còn
liệt kê thêm năm sức mạnh của bậc Hữu học, đó là tín lực, tàm lực, quý lực,
tinh tấn lực, tuệ lực(30). Trên một phương diện khác, kinh điển còn ghi lại năm sức mạnh như: 1.
Niềm tin; 2. Sự siêng năng; 3. Nhớ nghĩ chân chánh; 4. Sự chú ý, tập trung; 5.
Tuệ giác. Năm sức mạnh này là quyền lực tâm linh đích thực(31), nếu được kiện toàn và vận dụng trong thực tiễn
đời thường thì sẽ kiến lập một Tịnh độ nhân gian; trên phương diện thâm
sâu, sự thể hiện thuần thục năm sức mạnh này còn có khả năng khai mở kho tàng
tuệ giác vô tận của mọi người.
Kết
luận
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi
gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện. Từ ước mơ trở về
hiện thực là cả một cung đường dài, tùy thuộc vào điều kiện cụ thể và hoàn cảnh
sống của từng người. Lựa chọn những khát vọng vừa tầm với cũng là tâm thế khích
lệ để mọi người có thể hướng về. Trong nghĩa hiện thực như đã được trình bày,
lời chúc phúc sống lâu, sắc đẹp, an vui và sức mạnh không chỉ
được chư Tăng vận dụng sau khi thọ nhận phẩm vật cúng dường của thí chủ, mà bất
kỳ ai cũng có thể dùng để chúc nhau trong những dịp Tết đến, Xuân về. Hơn nữa,
từ những dẫn giải trong kinh tạng đã nêu, lời chúc trên cũng đã thể hiện rõ
đường hướng tu tập dành cho người Phật tử mà bất kỳ ai trong chúng ta cũng có
thể vận dụng vào cuộc sống hàng ngày để lời chúc - ước mong trở thành hiện
thực.
(1) Kinh Trường Bộ, tập 2, Kinh Chuyển Luân Thánh
Vương Sư Tử Hống; xem thêm, Kinh Tăng Chi, chương Bốn pháp, phẩm Nguồn
sanh phước, Kinh Suppavàsà.
(2) Kinh Trung Bộ, tập 2, Kinh Brahmayu.
(3) Kinh Trường Bộ, tập 2, Kinh Thập Thượng.
(4) Kinh Trường Bộ, tập 2, Kinh Đại Thiện Kiến Vương.
(5) Kinh Trung Bộ, tập 2, Kinh Pháp Trang Nghiêm.
(6) Kinh Tăng Chi, chương Năm pháp, phẩm Bệnh, Kinh Tuổi Thọ.
(7) Kinh Trung Bộ, tập 2, Kinh Brahmayu.
(8) Kinh Trường Bộ, tập 2, Kinh Giáo Thọ Thi Ca La Việt.
(9) Kinh Tương Ưng, tập 1, phẩm thứ hai, Kinh Không Phóng Dật.
(10) Kinh Trung Bộ, tập 3, Kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt.
(11) Kinh Ánh Sáng Hoàng Kim, bản dịch của Tỷ kheo Trí Quang, NXB. TP,
HCM, 2011, tr.78.
(12) Kinh Tăng Chi, chương Năm pháp, phẩm Sumanà, Kinh Sumanà, Con Gái
Vua.
(13) Kinh Trường Bộ, tập 2, Kinh Tệ Túc.
(14) Kinh Trường Bộ, tập 2, Kinh Tướng.
(15) Kinh Trung Bộ, tập 2, Kinh Brahmayu.
(16) Kinh Trường Bộ, tập 2, Kinh Đại Thiện Kiến Vương.
(17) Kinh Trung Bộ, tập 3, Kinh Tiều Nghiệp Phân Biệt.
(18) Kinh đã dẫn.
(19) Kinh Tăng Chi, chương 11 pháp, phẩm Tùy niệm, Kinh Từ.
(20) Kinh Tiểu Bộ, tập 1, kinh Tập, chương Một, phẩm Rắn, Kinh Từ Bi.
(21) Kinh Trường Bộ, tập 2, Kinh Tướng.
(22) Kinh Tăng Chi, chương Bốn pháp, phẩm Nghiệp công đức, Kinh Không
Nợ.
(23) Kinh Tăng Chi, chương Ba pháp, phẩm Sứ giả của nhà trời, Kinh Về
Alavi.
(24) Kinh đã dẫn
(25) Kinh Trung Bộ, tập 3, Kinh Nhất Dạ Hiền Giả.
(26) Kinh Tương Ưng, tập 1, Tương ưng chư thiên, chương một, phẩm Cây
Lau.
(27) Theo Wikipedia, Chỉ số hành tinh hạnh phúc.
(28) Theo Vicky Mackenzie, Ẩn Tu Nơi Núi Tuyết, Pháp Minh Trịnh Đức Vinh
dịch, NXB. Phương Đông, 2010, tr.390.
(29) Kinh Tăng Chi, chương Tám pháp, phẩm Gia chủ, Kinh Sức Mạnh.
(30) Kinh Tăng Chi, chương Năm pháp, phẩm Sức mạnh hữu học, Kinh Rộng
Rãi.
(31) Xem thêm, Thích Nhất Hạnh, Quyền Lực Đích Thực, Chân Đạt dịch, NXB.
Tri Thức, Hà Nội, 2008.