Sau khi Ngài chứng quả A la hán, Mục 
Kiền Liên dùng huệ nhãn tìm kiếm mẫu thân khắp 3 cõi, thấy mẹ bị đoạ vào kiếp 
ngạ quỷ (quỷ đói) chịu thống khổ nơi địa ngục A tỳ. Lòng Ngài quá xót xa đau đớn 
bèn cậy phép thần thông đến dâng cơm cho mẹ. Bà Thanh Đề, mẹ của Ngài vì quá đói 
khát nên tham lam vội vàng giật lấy bát cơm bốc ăn, cơm chưa vào miệng đã biến 
thành lửa bốc cháy... Nhìn cảnh tượng đó, Mục Kiền Liên đau đớn vô cùng, liền 
quay trở về bạch với Phật cầu xin dạy cách cứu mẹ. Đức Phật cho biết là bà Thanh 
Đề sinh thời đã tạo nhiều ác nghiệp nặng nề nên một mình phép thần thông không 
cứu được, chỉ có thần lực mười phương Tăng đồng tâm hiệp lực cầu nguyện mới cứu 
giúp được cho bà qua khổ nạn
Đức Phật dạy thêm Mục Kiền Liên phải tổ chức cúng dường 
các Tăng Ni nhân ngày an cư kiết hạ vào ngày rằm tháng Bảy. Theo Pháp Phật, 
trước khi thọ thực, chư Tăng Ni sẽ nhất tâm cầu nguyện, hồi hướng phước lành cho 
cha mẹ hiện tiền của thí chủ được tăng phước, tăng thọ.
Theo kinh Vu Lan bồn, Mục Kiền Liên đã thực hiện lời dạy 
của Đức Phật, thỉnh chư Tăng cúng dường, nương nhờ tâm thanh tịnh, sau 3 tháng 
an cư chú nguyện mà bà Thanh Đề đã chuyển hoá tâm thức, xoá bỏ lòng tham, thoát 
khỏi kiếp quỷ đói sanh về cảnh giới an lành.
Quan điểm chung của mọi tôn giáo kể cả Phật giáo đều cho 
rằng hương linh của người chết đoạ vào kiếp ngạ quỷ, họ sống, họ ăn bằng cái 
tưởng và do tâm tưởng mà họ no, vì vậy thể xác của họ nhẹ nhàng như bóng như gió 
và khi được chuyển tâm tưởng thì liền đó thoát khổ. Do đó khi chư Tăng Ni nguyện 
lành cho bà, bà chuyển được tâm niệm nên sinh vào cõi tốt đẹp hơn.
 "Vu Lan bồn" là từ 
ngữ phiên dịch từ chữ Phạn Allambhana, dịch theo ngôn ngữ Trung Hoa là "Giải đảo 
huyền" có nghĩa là cứu "nạn treo ngược", mô tả hình phạt treo ngược, hình dung 
một quả báo chịu sự hành hạ đối với người đã gây tội ác phải thọ lãnh ba đường 
khổ: địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Cực hình treo ngược còn có hàm ý thể hiện 
tâm lý phiền não, tham lam, sân hận, si mê đã cột chặt chúng sanh vào vòng sinh 
tử luân hồi cần được giải cứu.
Như vậy, ngay từ khởi thuỷ lễ Vu Lan là một đại lễ Báo 
hiếu, Báo ân sâu dày của cha mẹ. Lễ Vu Lan đã thăng hoa thành một lễ hội văn hoá 
lớn với ý nghĩa sâu đậm là "uống nước nhờ nguồn" nhớ ơn và đền đáp công ơn dưỡng 
dục sinh thành của cha mẹ dù còn hiện hữu trong đời hay là hương linh đã quá 
vãng.
Đối với đất nước ta đã trải qua khổ nạn chiến tranh triền 
miên được mô tả bằng 
hình ảnh ghê gợn "xương chất thành núi, máu chảy thành sông". Ngày nay lễ 
Vu Lan còn có thêm một ý nghĩa là đại lễ cầu nguyện cho các chiến sĩ trận vong, 
đồng bào tử nạn chiến tranh được vãng sanh nơi cực lạc.
 · Cõi giới siêu hình
Định lý Toán học Godel nổi tiếng gây nhiều ảnh hưởng sâu 
rộng đến các phương pháp tư duy duy lý. Có thể hiểu là: Nền tảng của bất cứ lý 
thuyết nào mà con người xây dựng nên, đều phản ảnh một tình huống nhất định của 
nhận thức. Từ bên trong một tình huống không thể hiểu hết mọi chuyện của tình 
huống đó, chỉ khi nào đứng ngoài tình huống đó thì may ra mới đạt tới một viễn 
cảnh sâu xa hơn để có thể nhìn thấu bên trong nó, vì vậy ta không thể hy vọng 
đứng bên trong thế giới duy lý mà thấu hiểu hết mọi thứ. Nói cách khác, đã đến 
lúc mà tư duy cơ giới với tất định luận, với những phương pháp phân tích, suy 
luận duy lý và qui giản đã không còn phù hợp, mà còn phải bổ sung những quan 
điểm tư duy mới, vận dụng thêm những năng lực cảm thọ khác trên cơ sở quan điểm 
mới để tìm hiểu các đối tượng nhận thức của mình, nhằm mục đích nhận thức chứ 
không nhất thiết phát hiện nên các chân lý khách quan mà trung tâm là tìm được 
các cách thức giải quyết vấn đề mà con người gặp phải trong cuộc sống bình 
thường của mình.
 Đức Phật lúc còn tại thế rất ít khi Ngài bàn 
đến các vấn đề siêu hình. Tất cả các giáo pháp của Ngài đều mang màu sắc thực 
dụng. Những hệ thống triết lý như hệ thống pháp tánh, hệ thống duy thức đôi khi 
mang màu sắc siêu hình nhưng hoàn toàn không phải là hệ thống lý luận siêu hình 
mà chính là hệ thống tâm lý siêu hình bắt nguồn từ nhận thức tâm lý đã thâm nhập sâu vào 
thực nghiệm tâm linh và thực chứng bản thể. Hệ thống triết học như thế không 
phải được dàn dựng có mục đích giải đáp các thắc mắc siêu hình mà đó là những "ngón 
tay chỉ trăng", đó là "ảnh tượng chân 
lý" để nương tựa vào, để đạt đến chân lý.
Chính đức Phật cũng nói rất nhiều về các cõi giới siêu 
hình như chúng sinh ở địa ngục, ngạ quỷ, thần Atula, Chư Thiên.v.v. Các chúng 
sinh đó có hình hài mà các hình hài đó đối với chúng ta là siêu hình. Một hình 
hài mà siêu hình nên được gọi là linh hồn 
hay thần thức hay thân Dị thục theo Phật giáo
Quan niệm chung của các dân tộc trên thế giới thì linh hồn 
là một cấu thể có hình dáng tựa như thân xác nhưng thuộc siêu hình, có thể tánh 
nhẹ,
 có thể bay, có thể biết được ý nghĩ của 
con người, có thể nhìn thấy con người nhưng không bị con người nhìn thấy. Khi 
con người còn sống bình thường thì linh hồn gắn với thể xác và sẽ tách khỏi thể 
xác khi chết đi hay khi nhập vào thiền xuất hồn (Du Hí Tam Muội). Linh hồn vẫn 
tồn tại, sau khi chết tồn tại từ cõi sắc trở xuống. Linh hồn có hình dáng, có 
cảm thọ để chịu đau khổ ở địa ngục hay hưởng hạnh phúc ở cõi trời, không chịu 
ảnh hưởng vật chất trần gian, có hành ấm để cho bản ngã hoạt động, có thức ấm vi 
diệu. Thần thức còn gọi là thân Dị thục hay Báo thân bao gồm chủng tử, tập khí 
và nghiệp của mỗi con người, đó là nói đến thế giới tâm lý hơn là sinh lý. Khi 
sắc thân tức cơ thể bằng xương bằng thịt qua đời thì thân Dị thục sẽ tái sinh. 
Đó chính là động lực của tâm lý nghiệp thức thúc đẩy tìm kiếm một sanh thân mới 
khi con người qua đời. Thân Dị thục này cũng vô thường nên nó là vô ngã. Thân Dị 
thục sẽ thực sự chấm dứt vĩnh viễn khi hành giả tạo được một sự chuyển y trong 
cơ cấu nội tại của tàng thức, nghĩa là bước sang thế giới của Niết bàn.
Quan điểm tái sinh theo Phật giáo có mấy điểm quan trọng
a/ Người ta 
không chỉ tái sinh trong loài người, mà có thể tái sinh trong vô số trạng thái 
hiện hữu khác, đa số là vô hình đối với chúng ta.
b/ Không có gì chắc chắn là người sẽ tái sinh làm người, 
trừ khi đó là người đó có đạo đức cao và ngược lại điều đó thì sẽ tái sinh trong 
cõi thấp, chịu đau khổ hơn và ở lại đó trong nhiều kiếp trước khi tái sinh lại 
trong cõi người.
c/ Vòng sinh tử luân hồi của con người đã có từ vô thuỷ.
d/ Giữa 2 kiếp sống trước và sau, con người ở trong trạng 
thái trung gian (trung ấm) một thời gian cho đến khi đủ duyên sẽ chuyển thân vào 
thai mới, lúc đó linh hồn cũ tan rã vì sự sống tiếp sau vừa hình thành trong 
thai nhi mới (không nhất thiết của con người). 
Đối với những người có tinh thần mạnh mẽ ưu tư các vấn đề 
đại sự thì linh hồn có nhiều năng lực mạnh mẽ, có thể tác động đến tinh thần 
người sống và có thể tồn tại lâu trong thế giới siêu hình, họ có thể hiện khởi 
thành hình hài trong chốc lát trước mắt ai đó có duyên.
Trong các kinh Phật như kinh Thủ Lăng Nghiêm kính Pháp 
Hoa, Đức Phật có nói đến những người tạo nghiệp quá nặng phải đoạ vào Địa ngục 
để chịu trừng phạt, người tạo phước đức sâu dày thần thức sẽ lên cõi trời yên 
vui.
 Đạo Phật quan niệm 
không phải Tàng thức đã đem khuynh hướng từ đời này sang đời sau mà ở đây chỉ có 
nhân quả nghiệp báo làm nền tảng xây đắp cho đời sau.
*
*   *
Theo các nhà vật lý thiên văn vũ trụ thông báo về tổng vật 
chất và năng lượng vũ trụ có thể phân loại như sau: 
+ Có 4% vật chất thông thường là loại vật chất tạo nên 
chúng ta và bao quanh chúng ta (thực vật, động vật .v.v.)
+ Có 22% vật chất ngoại lai là vật chất không được cấu tạo 
từ neutron và proton. Người ta cho rằng nó được cấu tạo bởi các hạt cơ bản nặng 
sinh ra trong những phần giây đầu tiên sau vụ nỗ lớn (Big Bang) tạo nên vũ trụ.
Như vậy 74% vật chất còn lại ở đâu. Các nhà khoa học đành 
gọi là "năng lượng tối" và họ chưa nói gì về bản chất của nó, nhưng chính nó là 
thủ phạm gây ra sự dãn nở của vũ trụ diễn ra càng ngày càng nhanh, cũng như các 
thiên hà rời xa nhanh hơn.
Và các nhà khoa học cho rằng phải tồn tại một loại vật 
"chất vô hình" rất lớn trong vũ trụ. 
Hơn nữa, theo thống kê của thế giới về dân số cho biết, từ 
khi con người có mặt trên địa cầu cho đến nay có khoảng 70 tỷ người đã qua đời, 
nghĩa là gấp 10 lần dân số hiện nay. Phải chăng có một sự tương thích giữa lý 
thuyết khoa học về vũ trụ và lý thuyết về các cõi giới siêu hình của tôn giáo 
như "cõi Trời, cõi Địa ngục" và có thể 
một ngày nào đó, khoa học mở rộng phạm vi môi trường sống sang thế giới vô hình 
cũng là một dạng tồn tại, nơi đến sau cái chết trong cuộc đời này của con người.
· 
Văn tế thập loại chúng sinh
Dân gian còn gọi một tên khác "Chiêu hồn ca" , một tác 
phẩm viết bằng chữ Nôm theo thể song thất lục bát gồm 184 câu và không biết chắc 
chắn được cụ Nguyễn Du sáng tác vào những năm nào. Áng văn mang tính văn chương 
bình dân sâu sắc được mở đầu bằng một không gian mùa thu. Mùa thu trong áng văn 
không kiều diễm lãng mạn với tơ trời lung linh, mang theo bụi thu mờ, không có 
lá thu rụng vàng tơi tả, đã thêu dệt thấm đẫm cho những cuộc tình hò hẹn hay ly 
biệt. Trái lại mùa thu ở đây thật cô quạnh, hiu hắt có mưa dầm và sương lạnh. 
Đêm về thì trời đất u tịch, âm hưởng trầm buồn vang vọng tiếng trùng nỉ non, hoà 
điệu cùng với khúc bi ai của những oan hồn cô độc sống kiếp lưu linh đày đoạ, 
vất vưởng lưng chừng giữa cái chết và cái sống trong tiếng than ai oán và uất 
hận.
"Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt
Lọt hơi sương lạnh buốt xương khô
Não người thay bấy chiều thu
Ngàn lau khảm bạt, giếng ngô rụng vàng
Đường bạch dương bóng chiều man mát
Ngọn đường đê lát đát mưa sa.
Lòng nào lòng chẳng thiết tha
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm".
Áng văn được khép lại bằng tâm niệm nương nhờ nơi oai lực 
thanh tịnh của Tam Bảo, nương tựa nơi hùng lực Tâm Đại bi của đức Phật để được 
siêu độ thoát khổ.
"Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng
Nam mô nhất thiết siêu thăng thượng đài".
Không tránh khỏi bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, xã hội đã 
trải qua bao nhiêu loạn lạc, tranh quyền đoạt lợi, gây bao nhiêu đau thương tan 
tóc suốt thời kỳ Lê mạt, Trịnh - Nguyễn phân tranh, Tây Sơn quật khởi cho đến 
thời kỳ Nguyễn sơ, đã ảnh hưởng đến tâm hồn sáng tác của cụ Nguyễn Du trong Văn 
Tế Thập loại chứng sinh. Nhưng bối cảnh đó chỉ là những điểm nhấp nhô trên một 
lát cắt thời gian. Toàn cảnh của áng văn đầy uy lực được ông mô tả về thân phận 
khác nhau của người đời và đời người trong nỗi nghiệp riêng. Dù sang hèn, nhà 
cao cửa rộng, áo mũ cân đai, đầu rừng cuối sông, bãi bể nương dâu đều phải chịu 
chi phối bởi tang thương, trắc trở đổi thay, đều bị trói chặt bằng dây nghiệp 
lực vào thế giới oan khiên chập chùng, hay bị vây hãm kiếp nhân sinh trong vòng 
khốn đốn, lầm than, khổ não.
"Kiếp phù sinh như hình như ảnh 
Có chữ rằng vạn cảnh giai không"
(Nguyễn Du - Văn tế)
 Sự bi ai thống 
thiết của lời văn trong "Chiêu hồn ca" mang đậm nội dung thâm áo của Phật pháp 
nhằm khai mở trí tuệ, phát lộ tâm từ tâm bi, diễn bày nỗi u uất, thống hận, khổ 
ải mà cô hồn, ngạ quỉ, gánh chịu vì nghiệp chướng của họ, đồng thời giải bày 
tính hư huyển, giả tạm của cuộc thế nhân gian, làm rung động, cảm hoá đến tâm 
thức người đang sống nhằm thức tĩnh tâm hồn mãi còn rong ruỗi chốn u mê và nhận 
ra rằng những hành vi bất thiện có cội nguồn từ tham lam, sân hận, cuồng si 
trong đời này chỉ dẫn đến khổ luỵ cho mình không những trong thời khắc hiện sinh 
mà còn cho cả kiếp sau.
Rốt cuộc, người ta tự vấn: mục đích muôn thuở của nhân 
sinh là gì? Giấc mộng công hầu khanh tướng, tranh hùng tranh bá, xưng vương, 
xưng tướng, dành giật quyền cao chức trọng, cho đến kẻ bôn chen tất bật, bồn tro 
đãi sạn, sớm ở đầu truông tối ở cuối gành, mộng đã không thành đến khi chôn vùi 
thân xác nơi cõi thiên thu. Giang sơn như hoạ thì còn đó, mà người còn đâu. Biết 
bao giờ nỗi oan khiên uất hận mới kết thành ngọc bích long lanh và bao giờ mới 
trực ngộ:
"Nhờ pháp Phật uy linh dũng mãnh
Trong giấc mơ khai tỉnh chiêm bao"
(Nguyễn Du - Văn tế)
Nhưng vẫn còn có duyên lành hé mở cho chúng sinh chốn trần
"Nhờ pháp Phật siêu sinh tỉnh thổ
Bóng hào quang cứu khổ độ u
Rắp hoà tứ hải quần chu
Não phiền trút sạch, oán thù rửa không
(Nguyễn Du - Văn tế)
*
*   *
Đại lễ Vu Lan và Văn tế Thập loại chúng sinh có phần giao 
cảm sâu sắc, phản ánh nhập thế của Phật giáo Việt Nam - hoà điệu của ba truyền 
thống Mật, Tịnh độ và Thiền tông như lời dạy của Đức Phật: tất cả các biển chỉ có một vị mặn của nước. 
Hơn thế nữa, Phật giáo Việt Nam còn thể hiện tinh thần "khế 
lý, khế cơ" của giáo pháp với truyền thống dân tộc bằng một liên hệ hữu cơ 
và tự nhiên, trở thành nếp sống đạo đức hướng thượng của người Việt Nam từ ngàn 
xưa. Quan điểm về hiếu hạnh của đạo Phật không dừng lại trên lý lẽ thuần tuý mà 
phải thể nhập bằng thái độ sống, kết nối sự yêu thương, hướng đến sự bình an nội 
tại, nhận chân được hạnh phúc nhân gian.
Nguyên lý Duyên khởi của nhà Phật là nền tảng, là cội 
nguồn của đạo lý hiện thực. Tri ân và biết ân là đức hạnh sâu dày để an trú 
trong thế giới an lạc hạnh phúc. Phật dạy "Ai 
thấy Duyên khởi là thấy Pháp, ai thấy Pháp sẽ chứng ngộ Niết bàn".
Công hạnh dâng hương, dâng hoa, đốt trầm để khói hương 
trầm nghi ngút loan toả đến mười phương Phật, Bồ Tát. Gắp trầu xanh, đĩa cau 
chín mọng dâng hiến Thánh thần cõi trên, chiếu rọi khắp Thiên đàng, Địa giới. 
Bát chè, dĩa xôi, cáo bạch ông bà, tổ tiên để minh chứng tấm lòng hiếu hạnh kẻ 
trần gian. Đây thật sự là tố chất của giá trị tâm linh được mỗi con người trải 
nghiệm nghiêm chỉnh trong suốt quá trình của dòng sống vận hành với đầy rẫy 
những biến động mà ta phải đối diện.
  
 
 
 
 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
 
(1) Thuyết luân hồi: Martin Willson - NXB 
Phương đông - Việt dịch Thích Nguyên Tạng
(2) Tự điển yêu thích bầu trời: Trịnh 
Xuân Thuận - NXB Trí tuệ 2011
(3) Khoa học và tâm linh: Đoàn Xuân Mượu 
- NXB Thanh niên 2010
(4) Lễ Vu Lan: Vũ Thế Ngọc - NXB Phương 
Đông 2009
(5) Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Tân Minh - NXB 
Tôn giáo 2009