Những
ngôi chùa dù có lặng lẽ, u trầm suốt những tháng đông lạnh giá vẫn trầm
tích văn hóa tín ngưỡng trên từng mái ngói, cổng chùa, tượng gỗ, tượng
đất, gác chuông…Đến giêng hai thì khách thập phương lại tìm về thăm quan
các chùa và lễ Phật. Cũng như các Phật tử thuần thành, tôi vẫn thường
“lên” chùa lễ Phật, cũng là dịp để hái lộc đầu năm.
Dọc dài trên những nẻo đường đất nước,
tôi đã “lên” chùa từ thời niên thiếu. Trong kí ức tôi, vẫn còn ghi dấu
những ngôi chùa lớn tại Huế mà tôi hằng ngưỡng mộ. Những ngôi chùa danh
tiếng đã có hàng trăm năm như chùa Thiên Mụ, Từ Đàm, Từ Hiếu, Diệu Đế,
Thiện Tôn, Tra Am…Còn in dấu trong kí ức tôi “Tiếng chuông Thiên Mụ,
canh gà Thọ Xương”. Vẫn còn lung linh những đêm hoa đăng trên sông Hương
trước chùa Thiên Mụ. Trong nhiều lần khác nhau, tôi đã lặn lội vô thăm
chùa Phúc Kiến tại Hội An để rồi ngẩn ngơ trước mái chùa cong lợp ngói
xanh mang dấu ấn kiến trúc của người Hoa. Lần đầu tiên bước vào động
chùa Huyền Không trên dãy núi Ngũ Hành Sơn-Đà Nẵng, tôi cảm giác như
đang đến một cảnh giới khác. Nhiều năm sau, tôi hành hương phương Nam,
tham quan các ngôi chùa cổ. Tôi nhớ mãi kiến trúc của chùa Hang ở Trà
Vinh mang kiến trúc của người Khmer-Nam Bộ. Mấy năm gần đây, tôi có
nhiều dịp đến thăm quan chùa Một Cột, chùa Trần Quốc tại Hà Nội.
Đi nhiều, biết được nhiều chùa ở Việt
Nam, tôi vẫn thích các ngôi chùa cổ ở khắp các vùng miền của đất nước.
Không thể làm một cuộc so sánh nào về vẻ đẹp của hàng ngàn, hàng vạn
ngôi chùa, từ những ngôi chùa làng, chùa thôn, chùa sóc…đến những ngôi
chùa lớn danh tiếng, quốc tự. Với góc nhìn riêng của mình sau các chuyến
đi điền dã, tôi có biết chút ít về các ngôi chùa cổ mà tôi hằng tôn
kính và ngưỡng vọng.
Trên vùng ”Đất đá ong khô nhiều ngấn lệ”
(thơ Quang Dũng), ngôi chùa Thầy đã được xây lên vào thời Vua Trần Nhân
Tông-đầu thế kỷ 12. Qua cầu Nguyệt Tiên, có con đường nhỏ lên núi, trên
ấy có hai ngôi: chùa Cao và chùa Bối Khê. Người hướng dẫn đoàn làm phim
tài liệu thăm chùa Thầy, nói “Chùa Thầy còn có tên là Thiên Phúc Tự, là
chùa Cả, tọa lạc trên núi Sài Sơn. Buổi đầu, chùa Thầy chỉ là một cái
am nhỏ do ngài Từ Đạo Hạnh lập ra để tu hành”. Ngày nay, chùa Thầy là
một danh lam thắng tích ít có nơi nào sánh kịp. Từ trên sườn núi trở
xuống có chùa Thượng, chùa Trung, chùa Hạ làm thành một chữ Vương. Phía
trước chùa có hồ bán nguyệt, ở giữa có nhà Thủy Đình làm nơi diễn múa
rối nước. Hai bên chùa có hai chiếc cầu lợp mái ngói được đặt tên là
Nhật Tiên và Nguyệt Tiên. Tôi đã đi qua cầu Nguyệt Tiên rồi men theo con
đường nhỏ lên núi. Đường dốc đá trơn lượn lờ khó đi. Càng lên cao thì
cảnh sắc càng biến ảo. Trên đỉnh cao, hoa sứ nở trắng như bức tranh thủy
mặc. Khách thăm quan, viếng cảnh như đàn cò tìm về đậu trên núi. Đứng ở
trên cao nhìn xuống Thủy Đình giữa hồ bán nguyệt mới thấy hết vẻ u tịch
và thanh nhàn. Lên chùa Bối Khê được nghe kể truyền thuyết về ba kiếp
của Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Chùa thờ các tượng Kim Cang, La Hán bên cạnh
tượng Từ Đạo Hạnh khoác chiếc áo vàng.
Tối nán lại ở chùa Thượng. Thời gian có
thể mười thế kỷ đi qua nhưng còn để lại dấu vết, dấu ấn trên từng cấu
trúc của chùa. Những cột gỗ đường vệ đã bị thời gian xói mòn nhưng những
mái ngói âm dương vẫn còn giữ được dấu ấn thời gian. Tôi còn biết thêm
về ngôi chùa Cả u trầm này. Từ thế kỷ thứ 17, chỉ có ba chùa, đến đời
ông Phùng Khắc Khoan đã xây thêm hai chiếc cầu lợp mái ngói lên mới được
ấm áp và như mộng như thế. Đến nay chùa Thầy vẫn giữ được vẻ dáng kiến
trúc truyền thống, độc đáo, hiếm có ở Việt Nam.
Chùa Thầy nằm trong “quần thể” du
lịch-văn hóa suốt bốn mùa trong năm. Quần thể gồm có núi Sài Sơn nổi
tiếng, chung quanh là những ngôi làng cổ vẫn giữ nét quê xưa. Vẻ đẹp văn
minh của thời nông nghiệp hàng trăm năm vẫn còn lưu giữ trong từng cái
cổng làng, từng cái ao làng, trong từng viên đá ong khô, trong tầng tầng
gian nhà nối liền nhau, trên những con đương làng, trong những khu vườn
cây trái…Về thăm chùa Thầy, tôi như trở lại với cội nguồn. Mùa xuân
này, có bao nhiêu người nữa sẽ được tắm mình trong cảnh giới linh diệu
của chùa Thầy?
T.H.L