trước hết họ phải thực hiện quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu,
học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân. Nhờ
nhiếp phục các quá trình kham nhẫn, tu, học, và giúp đỡ tự thân và tha
nhân như vậy, thì họ mới có thể trở thành những nhà khoa học, toán học,
văn học, triết học, đạo học, v. v…
Bồ tát Tất Đạt Đa (Bodhisattva Siddhārtha Gautama),[1]
một vị đạo Sư tâm linh siêu việt, một Nhà đạo học hoàn hảo có đầy đủ
đức hạnh, từ bi, và trí tuệ, trải qua 6 năm tu khổ hạnh rừng già với
năm anh em Ông A Nhã Kiều Trần Như (Aññā Kondañña),
tìm cầu chân lý, và thiền định dưới cội cây Bồ đề suốt 49 ngày đêm.
Cuối cùng, Bồ Tát thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni được chư thiên và
loài người tôn kính, có khả năng đem ánh sáng giác ngộ, tình thương, và
hòa bình cho pháp giới chúng sanh trên khắp hành tinh này.
Qua những ý nghĩa tổng quát được đề cập ở trên, người viết mạnh dạn đặt tựa đề cho bài viết này là “Ánh sáng giác ngộ qua cái nhìn tuệ giác của Bồ tát Tất Đạ Đa.”
Cái nhìn ở đây được hiểu là cái nhìn kết quả của việc thực tập thiền
quán và cái nhìn tuệ giác, có khả năng thấy rõ tiến trình kham nhẫn,
tinh tấn, tu tập thiền định, thành đạo, hoằng pháp, và giáo hóa chúng
sanh của Bồ tát Tất Đạ Đa (Bodhisattva Siddhārtha). Trong chủ đề của bài viết này, chúng ta bắt gặp các cụm từ như “ánh sáng, giác ngộ, Bồ tát, Tất Đạt Đa.” Sau đây, người viết lần lượt giải thích từng thuật ngữ một và tìm hiểu ý nghĩa và nội dung của các thuật ngữ trên.
Thông thường, khi đề cập tới ánh sáng, người ta nghĩ
tới ánh sáng mặt trời, ánh sáng mặt trăng, ánh sáng sao hôm, sao mai;
ánh sáng đèn điện, đèn xe, đèn né-on, v. v … Các loại ánh sáng này là
ánh sáng thiên nhiên, ánh sáng vật chất, hay ánh sáng nhân tạo mà thôi.
Khác với các loại ánh sáng trên, ánh sáng được thảo luận ở đây chính
là ánh sáng giác ngộ, xuất phát từ thân tâm tu tập
thiền định, kham nhẫn, tinh tiến, thanh lọc, và chuyển hóa phiền não của
hành giả, tức Bồ tát Tất Đạt Đa.
Nhờ tu tập thiền định thuần tịnh và siêu nhiên, Bồ tát Tất Đạt Đa (Bodhisattva Siddhārtha)
đã đoạn tận vô minh, phiền não, lậu hoặc, chấp thủ, …, và thành tựu
đạo quả giác ngộ viên mãn. Đối với Bồ tát – vị hành Giả tỉnh thức, giác ngộ có nghĩa là vắng bặt vô minh, phiền não, chấp thủ, lậu hoặc, khổ đau, và chấm dứt vòng luân hồi tái sinh.
Ánh sáng giác ngộ được đề cập ở đây tượng trưng cho đạo Phật, đức
Phật, chánh pháp, và các vị đệ tử (Tăng đoàn); đạo Phật là đạo hòa
bình, đức Phật là vị Vua hòa bình, chánh pháp là con đường hòa bình, và
các vị đệ tử là những vị sứ giả hòa bình[2]... Thật vậy, hòa
bình có mặt đích thực khi nào mỗi chúng ta học, hiểu, hành trì, và ứng
dụng Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày một cách thích hợp trong các
địa phương, trú xứ, và quốc độ khác nhau. Chúng ta hiểu và thực hành
được như vậy, thì ánh sáng giác ngộ của đức Thế Tôn có khả năng chiếu
sáng trên khắp thế gian này. Hơn nữa, chúng ta biết trong yếu
tố giác ngộ còn có các chất liệu khác như chánh niệm, tỉnh thức, vững
chãi, thảnh thơi, thong dong, và tự tại. Thành tựu được các chất liệu
ấy, hành giả chắc chắn có an và có lạc ngay bây giờ và ở đây trong giờ
phút hiện tại.
Giác ngộ có nhiều ý nghĩa và giai đoạn khác nhau như sau:
Giác ngộ của hành giả phàm phu – qua quá trình tu tập, chuyển hóa
phiền não, áp dụng, và thực hành Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày
của mình, chúng ta có thể đạt được giác ngộ, nhưng giác ngộ từng phần
và từng bước;
Giác ngộ của hành giả Bồ tát – qua quá trình tu tập, đoạn tận hết các phiền não, và khám phá được khổ (Dukkha), khổ tập (Dukkha Samudaya), khổ diệt (Dukkha Nirodha), và con đường đưa đến khổ diệt (Dukkha Nirodha Gāminī Patipadā),[3] Bồ tát Tất Đạt Đa có khả năng đạt được giác ngộ, nhưng giác ngộ toàn phần và toàn hảo.
Để hiểu rõ được quá trình tu tập và chứng đạo của Bồ tát Tất Đạt Đa,
chúng ta cần phải hiểu rằng với chánh niệm và tỉnh giác, vững chãi và
thảnh thơi, sự chứng ngộ của đức Phật không chỉ được thành tựu ngay
trong lúc tu tập, mà ngay trong các đời sống trong quá khứ của Ngài,
ngay trong đời sống hiện tại, đặc biệt là ngay trong lúc Ngài là đứa bé
sơ sinh, cậu bé thái tử Tất Đạt Đa (Siddhārtha), và cuối cùng Ngài biểu hiện là đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni Buddha)
trên thế gian này. Chính vì vậy, vua Tịnh Phạn, thân phụ của Ngài, đã
hai lần chắp tay xá chào con mình và một lần đảnh lễ đức Phật; đó là,
1. Vua chắp tay xá chào con mình trong lúc đạo Sĩ A Tư Đà (Asita)
xem tướng cho thái tử và tiên đoán rằng thái tử sau này đi tu và trở
thành một Bậc tỉnh thức và giác ngộ viên mãn, Người có khả năng đưa
đường và chỉ lối hòa bình, an lạc và hạnh phúc cho số đông trên khắp
hành tinh này.
2. Trong buỗi lễ cày cấy, vua chắp tay xá chào con mình trong lúc
thái tử 9 tuổi đang ngồi thiền dưới cây hồng táo, chiêm nghiệm, và thấy
chúng sanh đang tranh giành, giết, và ăn thịt lẫn nhau. Với tâm từ sẵn
có, thái tử khởi tâm thương yêu muôn loài.
3. Vua đảnh lễ đức Phật trong khi đức Phật đang đi khất thực trên
đường về thăm vua tại thành Ca Tỳ La Vệ, nơi đây các vị hoàng thân quốc
thích trưởng thượng trong hoàng cung sinh tâm cao ngạo và cho rằng đức
Phật chỉ là em út và con cháu của họ mà thôi. Lúc ấy, đọc được tư
tưởng của các vị, đức Phật liền dùng năng lực nước từ bi và lửa trí tuệ
nhiếp phục và cảm hóa được các vị, và chính những người này sau đó
sinh tâm cung kính và đảnh lễ đức Phật và Tăng đoàn.
Như vậy, chúng ta thấy khả năng giác ngộ luôn có mặt trong thân và
tâm của con người bao gồm chất phàm và chất thánh trong họ. Trong chất
phàm có chất thánh; trong chất thánh có chất giác ngộ và giải thoát.
Chất thánh trong Phật giáo được hiểu là Phật tánh hay chất Phật. Tuy
nhiên, xét về khía cạnh tuyệt đối, chúng ta thấy khả năng giác ngộ trong họ, ở thánh Phật tánh không tăng, ở phàm Phật tánh không giảm.
Hiểu rộng thêm nữa là, theo quan điểm từ bi của Phật giáo, ở trong
con người và ở con vật Phật tánh đều có, và ngay cả ở trong các loài vô
tình Phật tánh cũng đều có mặt. Hiểu rõ được ý nghĩa như vậy, thì mỗi
chúng ta có thể vun trồng và tưới tẩm Phật tánh trong ta và trong các
loài hữu tình và vô tình bằng cách bảo vệ môi sinh, tôn trọng sự sống
của muôn sự và muôn vật, cụ thể là thực hành điều tỉnh thức thứ nhất,
một trong năm điều tỉnh thức của đạo giác ngộ. Thực vậy, dù ở địa vị
phàm phu hay thánh quả, dù ở các loài vô tình hay hữu tình, nhưng Phật
tánh vẫn là Phật tánh, ánh sáng giác ngộ vẫn là ánh sáng giác ngộ, tuệ
giác vẫn là tuệ giác…
Tuy nhiên, xét về khía cạnh tương đối, chúng
ta biết sự biểu hiện Phật tánh tùy theo mức độ tu tập của mỗi hành giả
phàm phu và hành giả Bồ Tát. Ở thánh Phật tánh tỏa sáng như ánh trăng
Rằm, ở phàm Phật tánh tỏa sáng như ánh trăng khuyết. Đối với hành giả
Bồ Tát, qua quá trình tu tập và chứng ngộ, Phật tánh có thể tỏa sáng
100%, vì phiền não và lậu hoặc đã được đoạn diệt. Đối với hành giả phàm
phu như chúng ta, qua quá trình tu tập, thanh lọc và chuyển hóa, Phật
tánh có thể tỏa sáng khoảng …40, 60, 80…%, vì phiền não và lậu hoặc
đang và cuối cùng sẽ được đoạn diệt hoàn toàn.
Trăng mờ vì mây, Phật tánh mờ vì phiền não; mây tan nhờ gió, phiền
não tham, sân, si… đoạn diệt nhờ tu tập và chuyển hóa. Tu tập có nghĩa
là quá trình nhận diện và chuyển hóa các phiền não tham, sân, si, mạn,
nghi, ác kiến... Khi các phiền não đã được chuyển hóa và đoạn diệt, thì
ánh sáng giác ngộ của hành giả Bồ tát tròn sáng và hiển bày. Ở điểm
này, Bồ tát Tất Đạt Đa, Người đã làm được, đã chứng ngộ viên mãn, và
đáng được thế gian quy ngưỡng và tôn kính.
Như vậy, khi thảo luận ở đây, ánh sáng giác ngộ được hiểu là ánh sáng
thiền định, ánh sáng tuệ giác, ánh sáng hòa bình, ánh sáng đại hùng,
đại lực, và đại từ bi do chính Bồ tát Tất Đạt Đa khám phá và chứng ngộ.
Nó không từ trên trời rơi xuống, nó không phải một món quà do một đấng
thần linh ban tặng. Nó do chính Bồ Tát nếm và trải nghiệm qua sự tu
tập, thực hành, và chứng ngộ tâm linh. Nó rất vi diệu, thù thắng và
thiết thực hiện tại, dành cho những ai quan tâm, học hỏi, hành trì, và
ứng dụng tới Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày của mình.
Thực vậy, ánh sáng giác ngộ này không chế tác bằng tham, sân, si, vô
minh, tà kiến, hận thù, và chiến tranh, mà nó được chế tác bằng chánh
kham nhẫn, tinh tấn, nỗ lực, tinh thần tự tu, tự độ, tự ngộ và tự giải
thoát qua việc thực tập và ứng dụng các chất liệu từ bi, trí tuệ, hòa
bình, thiền định, và tuệ giác cho số đông ngay bây giờ và ở đây trong
cuộc sống hiện tại. Các chất liệu an lạc này có khả năng khơi dậy và
đánh thức những hoa trái tuệ giác trong thân tâm của hành giả Bồ Tát
trở nên bừng sáng.
Bồ tát hay Bồ-đề-tát-đỏa trong tiếng Phạn (Sanskrit) được viết là Bodhisattva; Bồ đề (Bodhi) có nghĩa là lớn, là giác, hay là tỉnh thức; Tát đỏa (Sattva) có nghĩa là một chúng sanh, một hữu tình, hay là một con người. Vậy Bồ tát (Bodhisattva) có
nghĩa là một chúng sinh đã đạt được sự giác ngộ và tỉnh thức nguyện đi
trên đường vui, tu tập, và giải thoát để làm an lạc và lợi ích cho tự
thân và cho tha nhân ngay cuộc đời này.
Trên lộ trình hướng đến giác ngộ và giải thoát, Tất Đạt Đa là một vị
Bồ tát bằng xương bằng thịt có thật trong lịch sử nhân loại có đầy đủ
phúc đức và trí tuệ, dũng mãnh và tinh tấn, nghị lực và kham nhẫn, tìm
ra chân lý và ánh sáng giác ngộ sau này. Chính vị Bồ tát này đã tu tập
thiền định thuần thục, trở thành một bậc đạo Sư tâm linh cao thượng,
dẫn dường chỉ lối an lạc và hòa bình cho pháp giới chúng sanh trên khắp
hành tinh.
Phàm phu chúng ta, vì nghiệp lực, mà sinh ra nơi đời, nên mỗi người
gặp nhiều hoàn cảnh khác nhau, căn tánh khác nhau, gia đình khác nhau,
mức độ giàu nghèo khác nhau… không ai giống ai cả. Thái tử Tất Đạt Đa,
một vị Bồ tát đích thực, vì nguyện lực, mà sinh ra nơi đời trong một
gia đình hoàng tộc, giàu sang, và quyền quý ở thành Ca Tỳ La Vệ (P. Kapilavatthu S. Kapilavastu), một phần của Nê-pan ngày nay.[4]
Lớn lên, thái tử lập gia đình với công chúa Da Du Đà La (Yasodharā), và có người con trai là La Hầu La (Rāhula).
Cùng với người hầu cận tên là Sa Nặc, một hôm thái tử đi viếng thăm
bốn cửa thành, thấy bốn cảnh thật của cuộc đời; đó là, người già, người
bệnh, người chết, và vị ẩn sĩ. Cảnh thật thứ tư là vị khất sĩ tượng
trưng cho hình ảnh thong dong và tự tại, tạo ấn tượng sâu sắc trong tâm
khảm của thái tử, và tạo nguồn cảm hứng cho thái tử sau này trở thành
một vị xuất sĩ không nhà. Khi trở thành vị xuất Sĩ không nhà, và sống
trong môi trường thiên nhiên và núi rừng, Bồ tát Tất Đạt Đa đã phải
tiếp xúc trực tiếp với nội tâm và ngoại cảnh.
Thực hành và trải qua 6 năm khổ hạnh tại hang động Mahakala trên núi núi Tượng Đầu (Dhungeshwari),
mỗi ngày Bồ tát chỉ ăn một ít hoa quả, và dần dần thân thể của Ngài
chỉ còn da bọc xương mà thôi. Khám phá lối tu khổ hạnh này không đưa
đến kết quả an lạc và giải thoát, Bồ tát Tất Đạt Đa (Bodhisattva Siddhārtha) quyết tâm thực hành theo phương pháp Trung Đạo (Pali: Majjhimā Paṭipadā; Sanskrit: Madhyamā Pratipad): (không tham đắm dục lạc, và không khổ hạnh ép xác), Bồ tát đồng ý thọ nhận và dùng bát cháo sữa của nàng Su Dà Ta (Sujata) cúng
dường. Sức khỏe của Bồ tát trở nên bình phục. Sau đó, Bồ tát chấp nhận
một bó cỏ cúng dường của người nông phu, đi thẳng tới Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya),
trải qua 49 ngày đêm thiền định dưới cội cây Bồ đề, cuối cùng chiến
thắng ma quân (Ma quân tượng trưng cho sự tham ái và chấp thủ), và giác
ngộ viên mãn.
Như vậy, trong quá trình tu tập và giác ngộ, Bồ tát phải biết quá
trình phát triển kham nhẫn của nội tâm bất kể ngoại cảnh; ngoại cảnh là
cảnh bên ngoài, cụ thể là thời tiết và môi trường thiên nhiên. Ở Ấn
Độ, vào mùa nóng nhiệt độ có thể lên tới 45 độ C. (45% C. = Celsius/ Centigrade = 120 degrees F. / Fehrenheit), và vào mùa lạnh nhiệt độ có thể 0 độ C. (0% C. = 0 degrees C. Celsius/ Centigrade = 32 degrees F. Fehrenheit).
Trong thời đại ngày nay, sống ở trong nhà, chúng ta có đủ quần áo,
chăn, gối, nệm, lò sưởi, máy điều hòa… để bảo vệ thân tâm chúng ta rất
ấm áp, nhưng đôi lúc chúng ta còn cảm thấy lạnh, nóng, và khó chịu.
Hãy để cho chúng ta suy nghĩ về Bồ tát Tất Đạt Đa (Bodhisattva Siddhārtha),
Người đã sống đời sống không gia đình, ăn hoa quả, uống nước mưa, nước
suối để nuôi thân, và đã dùng tỉnh thức, chánh niệm, và thiền định để
nuôi tâm… Ban đêm thì ngủ dưới gốc cây, ban ngày thì đi khất thực, lấy
môi trường thiên nhiên làm nhà, dùng cây và lá rừng làm giường chiếu,
dùng trăng sao làm đèn, dùng sự tu tập thiền, định, chánh niệm và tỉnh
giác làm món ăn tinh thần cho thân và cho tâm, và dùng việc hoằng dương
chánh pháp làm lợi ích cho số đông.
Tiếp đến là nội tâm; nội tâm là phần sâu kín nhất của nội tâm, được hiểu là tàng thức (Ālaya Vijñāna)
hàm chứa các hạt giống thiện và bất thiện; các hạt giống thiện gồm có
chánh kham nhẫn, chịu đựng, khắc phục, chọn lọc, vững chãi, tinh tiến,
nghị lực, sức mạnh tinh thần, niềm tin bất thoái, ánh sáng giác ngộ,
tuệ giác...; các hạt giống bất thiện gồm có giải đãi, biếng nhác, thoái
lui, do dự, lưỡng lự, nhu nhược, yếu đuối, mơ mờ, vô minh…
Tu tập là quá trình thực tập kham nhẫn, nuôi dưỡng, chọn lọc, thăng
tiến, và chuyển hóa từ khó khăn thành an vui, khổ đau thành hạnh phúc,
vô minh thành minh…. Tuy nhiên, con người chúng ta, khi gặp thời tiết
khắc nghiệt, ăn uống thiếu thốn, ngủ nghỉ lạnh lẽo. v. v…, thường thì
có xu hướng sống chán nản và thoái lui. Nhưng, đối với Bồ tát Tất Đạt
Đa (Bodhisattva Siddhārtha)
khi gặp nghịch cảnh khó khăn và thời tiết khắc nghiệt, Bồ tát luôn
hoan hỷ và đón nhận những cảnh khó khăn, khổ hạnh, và kham nhẫn đó;
những nghịch cảnh này tạo thành sức mạnh tinh thần, ý chí dũng mãnh,
tinh tiến, và nghị lực phi thường, và hướng Bồ Tát tới giác ngộ và giải
thoát tâm linh sau này.
Thực vậy, với tinh thần đại hùng, đại lực, đại bi và đại trí, đạt
được giác ngộ và giải thoát, thì Bồ tát Tất Đạt Đa đã thực hành hạnh
tinh tấn, kham nhẫn và kiên nhẫn. Muốn giác ngộ và thành Phật, Bồ tát
phải bắt đầu từ con người duyên sinh (Sanskrit pratītyasamutpāda; Pali paticcasamuppāda).
Nương vào con người này, Bồ tát tu tập và tìm ra chất thánh, chất vững
chãi và thảnh thơi, an vui và hạnh phúc. Lìa con người này ra, Bồ tát
không tìm được các chất liệu ấy. Là hành giả giác ngộ và tỉnh thức, Bồ
Tát tìm ra được ánh sáng chân lý qua việc áp dụng và thực tập chánh
kiến, chánh tư duy, chánh kham nhẫn, thanh lọc, và chuyển hóa các phiền
não tham, sân, si…
Chính vì vậy, đạo Phật luôn dạy con người tu tập, chuyển hóa, và
chuyển nghiệp là yếu tố then chốt hướng tới giác ngộ. Nương vào một
đấng tối cao nào đó để tìm kiếm giác ngộ và giải thoát nơi vị ấy, thì
hành giả không bao giờ tìm thấy. Nương vào con người giả hợp để tu tập,
để thanh lọc, và để chuyển hóa phiền não và lậu hoặc, thì hành giả có
thể tìm thấy giác ngộ, giải thoát, và Phật tánh nơi chính mình.
Bồ tát Tất Đạt Đa, Người tu giỏi, thấy ánh sáng giác ngộ trong vô
minh, tà kiến, và tà kham nhẫn, thấy Bồ đề trong phiền não, hạnh phúc
trong khổ đau, sen trong bùn, và hoa trong rác, và thấy con đường Trung
Đạo trong khổ hạnh ép xác và trong tham đắm dục lạc ... Trái lại, cùng
tu khổ hạnh với Bồ tát Tất Đạt Đa, 5 anh em của Tôn giả Kiều Trần Như,
những người tu không giỏi, không tìm thấy được con đường Trung Đạo,
không thực hành thiền định hoàn hảo như Bồ tát, và không tìm thấy giác
ngộ và giải thoát nơi tự thân.
Với sự kham nhẫn và nỗ lực, với tinh thần đại hạnh và đại nguyện, Bồ Tát tìm ra ánh sáng giác ngộ, chân lý Khổ (Dukkha), và con đường đưa tới chuyển hóa khổ đau (Dukkha nirodha gāmini patipadā ariya sacca), cụ thể là con đường Trung Đạo (Majjhimā paṭipadā) với tám chi nhánh rất thực tiễn: “Thấy
biết chân chánh (đúng), tư duy chân chánh, hành động chân chánh, nghề
nghiệp chân chánh, siêng năng chân chánh, nhớ nghĩ chân chánh, và
chuyên tâm chân chánh.” Tám chi nhánh này tương tức với
nhau như hình với bóng tạo thành con đường an vui và hạnh phúc cho số
đông nếu mọi người cùng nhau áp dụng và thực hành con đường này vào
trong đời sống hằng ngày một cách chánh niệm và tĩnh giác, vững chãi và
thảnh thơi ngay bây giờ và ở đây trong cuộc sống hiện tại.
Trên đây, nội tâm và ngoại cảnh đã được trình bày. Tiếp theo, chúng ta tiếp tục tìm hiểu ý nghĩa ma quân.
Khác với cảnh giới hữu hình của con người, ma thuộc cảnh giới vô
hình; quân có nghĩa là một nhóm số đông. Theo giáo lý ẩn dụ của Phật
giáo, ma quân dụ cho những hạt giống và tập khí tiêu cực trong thân và
trong tâm ta. Chẳng hạn như, mỏi mệt, biếng nhác, giải đãi, phóng túng,
buông lung, do dự, nãn chí, thoái lui, tham lam, sân giận, si mê… là
những tập khí tiêu cực. Chánh kham nhẫn, tinh tấn, dõng mãnh, vươn lên,
nghị lực, sức sống, khoan dung, độ lượng, an lạc, hạnh phúc, hòa bình,
tuệ giác, … là những tập khí tích cực.
Là người tỉnh thức, chúng ta nhận diện rằng các hạt giống tiêu cực và
tích cực luôn có mặt trong ta từ giờ này sang giờ khác, từ ngày này
sang ngày khác, từ tuần này sang tuần khác, từ tháng này sang tháng
khác, và từ năm này sang năm khác. Tu tập là quá trình thanh lọc và
chuyển hóa các hạt giống tiêu cực thành các hạt giống tích cực bằng
cách áp dụng và thực hành Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày của
mình một cách tinh chuyên, chánh niệm và tỉnh giác. Chúng ta thực tập
được như vậy, thì các hạt giống tiêu cực trong ta dần dần sẽ được đoạn
trừ, các hạt giống tích cực trong ta sẽ được phát triển, và ánh sáng
giác ngộ trong ta sẽ được hiển bày.
Ngược lại, khi chúng ta không tu tập Phật pháp ngon lành, hạt giống
tích cực trong ta sẽ bị giảm và mất dần dần, hạt giống tiêu cực trong
ta tăng trưởng và tăng nhanh, Phật tánh và ánh sáng giác ngộ trong ta
sẽ bị che mờ và che khuất. Người tu giỏi thì gặt hái hoa trái an vui và
hạnh phúc rất nhiều. Người tu không giỏi hoặc tu học lai rai thì gặt
hái hoa trái an vui và hạnh phúc rất ít hoặc không có. Quá trình tu tập
là quá trình đạt tới thân tâm an lạc và ánh sáng giác ngộ trong từng
phút, từng giờ, từng ngày, từng bước, và trong từng giai đoạn khác nhau
của cuộc đời.
Thật vậy, theo ý nghĩa ẩn dụ, ma quân chỉ cho cái tâm đố kỵ, kỳ thị,
sợ hãi, thấp kém, không giỏi bằng người, sợ và thấy người khác giỏi hơn
mình. Nếu một người không tu tập hoặc tu tập chút chút, thì ma quân
trong vị ấy dễ dàng xuất hiện, và ngược lại, nếu một người có tu tập
tinh chuyên, thì ma quân trong vị ấy biến mất dần.
Khi sao Mai vừa mọc, Bồ tát Tất Đạt Đa, Người tu tập tinh chuyên,
hoàn toàn chiến thắng ma quân bằng cách đoạn tận các phiền não và tập
khí tiêu cực trong Ngài. Lúc đó, tâm Bồ tát trở nên bừng sáng, ánh sáng
giác ngộ, hòa bình, an lạc và hạnh phúc trong Ngài có khả năng chiếu
sáng khắp nơi tự thân và tha nhân ngay tại thế gian này.
Qua các ý nghĩa đề cập ở trên, chúng ta thấy rằng ánh sáng
giác ngộ và tỉnh thức đều bắt nguồn từ pháp hành; vững chãi và thảnh
thơi đều bắt nguồn từ pháp hành; an lạc và hạnh phúc cũng đều bắt nguồn
từ pháp hành; đi cùng với pháp hành là pháp hiểu, pháp học, pháp
thiền, pháp định, pháp lạc, pháp hoằng, và pháp hộ. Xuyên qua pháp hành, Bồ tát Tất Đạt Đa (Bodhisattva Siddhārtha) lĩnh hội và có đủ các chất liệu ấy.
Ở điểm này, chúng ta hiểu thêm rằng, khi một con người sinh ra đời
hoàn hảo về mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ý, thì cả gia đình của vị ấy
đều vui. Khi vị ấy lớn lên, học hành, đỗ đạt, thành tài, có công việc
làm ăn ổn định, và lập gia thất, thì tự thân của vị ấy không những vui,
mà gia đình nội ngoại hai bên cũng đều vui. Những ý trên đây được nói
về con người thế gian. Khác với con người thế gian, Bồ tát Tất Đạt Đa,
con Người tỉnh thức, tìm ra ánh sáng giác ngộ, chân lý khổ, và con
đường chuyển hóa khổ đau dưới cội cây Bồ đề (Bodhi) tại Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya)
khoảng năm 589 trước thường lịch. Trong thế giới này, không những các
loài hữu tình, mà các loài vô tình trên quả địa cầu này đều được thấm
nhuần ánh sáng từ bi, trí tuệ, hòa bình, và an lạc nơi Ngài.
“Bồ tát Tất Đạt Đa,
quyết tâm đi xuất gia,
an trú vui thiền định,
chứng ngộ đạo tỉnh thức,
chứng ngộ đạo hòa bình,
chứng ngộ đạo giải thoát,
chỉ dạy cho chúng sanh,
đi trên con đường chánh
bằng ánh sáng giác ngộ,
bằng ánh sáng Phật pháp,
bằng ánh sáng Tăng đoàn
của đức Phật Thế Tôn.
Người người cùng tu tập,
nhà nhà được an vui.” (Người viết)
Theo cái nhìn tương tức của Phật giáo, đức Phật sơ sinh, cậu bé sơ
sinh, thái tử Tất Đạt Đa, Bồ tát Tất Đạt Đa, đức Phật Thích Ca Mâu Ni,
đều bắt nguồn từ con người duyên sinh và giả hợp (Sanskrit pratītyasamutpāda; Pali paticcasamuppāda)
mà thôi. Xuyên qua việc tu tập chánh tinh tấn, kham nhẫn, và thiền
định, nương vào con người này, Bồ tát Tất Đạt Đa tìm ra ánh sáng giác
ngộ nơi tự thân, giáo hóa, và làm lợi ích cho tha nhân. Do vậy, khi con
người này sinh ra, không những dân chúng và dòng dõi hoàng gia tại
thành Ca Tỳ La Vệ thuộc Ấn Độ cổ đại, một phần của nước Nê-pan (Nepal)
ngày nay, vui mừng, mà cả pháp giới chúng sinh trên khắp hành tinh cũng
đều vui mừng.
Có hai lý do chính sau đây: Thứ nhất, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và hoàng hậu Ma Da (Māyādevī),
lúc trên 40 tuổi, mới có con đầu lòng tên là Tất Đạt Đa, con người
toại nguyện có đầy đủ phước đức và trí tuệ. Cả vua và hoàng hậu đều
hiến tặng cho trái đất này một con người quý nhất trong lịch sử nhân
loại, bởi vì con người này luôn luôn nuôi dưỡng và đem lại ánh sáng hòa
bình, từ bi, trí tuệ, giác ngộ, giải thoát, an vui và hạnh phúc cho số
đông ngay tại thế gian này.
Ngày nay, với niềm tin chánh tín đối với Tam Bảo (Phật, Pháp, và
Tăng) bất thoái và không lay chuyển, những cha mẹ nào, những vị cư sĩ
và xuất sĩ nào, có đủ duyên tìm thấy đạo Phật bằng cách học hỏi, hiểu
biết, dạy dỗ, hành trì, và ứng dụng Phật pháp vào trong đời sống hằng
ngày, thì họ có khả năng hiến tặng con người đức hạnh và trí tuệ như
thế cho gia đình, cho tự viện, cho dòng họ, và cho cả xã hội. Thực hiện
được việc ấy tốt đẹp, thì họ cùng nhau góp phần xây dựng một quê hương
thanh bình, các gia đình hạnh phúc, một cõi thiên đường, hay cực lạc
ngay tại thế gian này.
Thứ hai, sau khi thái tử Tất Đạt Đa sinh ra, nhận lời mời của vua Tịnh Phạn (Suddhodana), tiên A Tư Đà (Asita), một vị ẩn sĩ nổi tiếng thời bấy giờ, thỉnh vào triều đình Ca Tỳ La Vệ (Pàli. Kapilavatthu Phạn. Kapilavastu), xem tương lai cho thái tử. A Tư Đà (Asita)
tiên đoán rằng khi lớn lên, chắc chắn thái tử sẽ từ bỏ con đường làm
vua, và thay vào đó quyết định chọn con đường xuất gia, ngộ lý vô
thường, tu tập thiền định, trở thành Người giác ngộ toàn hảo, và đem
lại an lạc và lợi ích cho số đông.
Thật vậy, những lời tiên đoán của tiên A Tư Đà là những lời tiên tri
duy nhất trong lịch sử Phật giáo và nhân loại, sau này trở thành sự
thật. Thực hiện các lời tiên đó có thể làm theo các tinh thần tự tu, tự
độ, tự ngộ, và tự giải thoát. Là một vị Bồ tát đích thực, thái tử Tất
Đạt Đa (Siddhārtha) quyết tâm đi xuất gia và trở thành Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni; Muni có nghĩa là vị hiền triết, vị ẩn sĩ; Sakya có nghĩa là tĩnh lặng, vắng lặng; vậy Sakyamuni có nghĩa là vị hiền triết tĩnh lặng của dòng họ Thích Ca – Sakya vắng
bặt các phiền não và lậu hoặc, đạt được giác ngộ viên mãn), Người sáng
lập ra đạo Phật, đem hoa trái tình thương và hòa bình để truyền bá cho
pháp giới chúng sinh trên khắp hành tinh này.
Với hạt giống giác ngộ trong nhiều đời, và với dòng dõi của các bậc
thánh trong nhiều kiếp, khi Bồ tát Tất Đạt Đa thành Phật, ánh sáng giác
ngộ, từ bi và hòa bình của Ngài được truyền bá rộng rãi trong khắp
nhân gian một cách bình đẳng, nó không kỳ thị, và không ngăn cản cho
bất cứ ai cả. Hễ những ai có đủ cơ duyên học hỏi, hành trì, và ứng dụng
giáo pháp giác ngộ vào trong đời sống hằng ngày một cách chuyên cần,
chánh niệm, và tỉnh giác, thì họ có khả năng gặt hái được những hoa
trái an vui và hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây trong cuộc sống hiện
tại; đây là những điểm đặc thù của đạo Phật hiếm thấy hoặc không được
tìm thấy trong các tôn giáo bạn.
Tóm lại, qua những gì đề cập ở trên, chúng ta biết ánh sáng giác ngộ
được xuất phát từ thân tâm tu tập của Bồ tát Tất Đạt Đa, cụ thể là đức
Phật Thích Ca Mâu Ni. Khi giác ngộ viên mãn, đức Phật, cùng với các vị
đệ tử, những vị sứ giả hòa bình, tiếp tục lên đường vận chuyển bánh xe
chánh pháp, và đem ánh sáng giác ngộ, hòa bình, an vui và giải thoát
truyền bá trong khắp nhân gian.
Nơi nào ánh sáng giác ngộ được truyền bá, thì nơi đó con
người an trú vững chãi trong đạo tỉnh thức và giác ngộ, họ không bao
giờ gặp sự kỳ thị, phân biệt chủng tộc, và phân chia giai cấp.
Nơi nào đạo Phật được truyền bá, thì nơi đó, với sự thực tập và ứng dụng Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày, con người sống hiền và thiện ra.
Nơi nào đạo Phật có mặt, thì nơi đó đạo Phật – đạo hòa bình – không bao giờ gây ra chiến tranh tôn giáo cho bất cứ ai.
Và nơi nào đạo Phật có mặt, thì nơi đó quê hương, dân chúng,
làng xóm không những được thanh bình, mà cỏ, cây, rừng, núi, đất, đá,
và muôn thú đều được yên vui, bởi lẽ các loài hữu tình và vô tình đều
thấm nhuần giáo lý từ bi và trí tuệ của đạo hòa bình.
Hiểu và thực hành được như vậy, thì chúng ta cùng nhau góp phần đem
lại an lạc và hạnh phúc đích thực cho số đông trên khắp hành tinh này.
Kính chúc quý vị an lạc và hạnh phúc trong ánh sáng hòa bình và giác ngộ của đức Phật Thế Tôn!
Thích Trừng Sỹ
Chú thích:
[1] Xem từ Bồ tát (Bodhisattva) được thấy trong Trường Bộ (Dighā Nikāya), Kinh Đại Bổn (Mahāpadāna Sutta), Phần I, số 18, 19, 20… 30.
[2] Xem http://dhammacakkhu.blogspot.com/p/uc-phat-hien-than-cua-hoa-binh-nguoc.html
[3] Xem http://en.wikipedia.org/wiki/Four_Noble_Truths#Fourth_truth:_path_to_the_cessation_of_dukkha
[4] Xem http://dhammacakkhu.blogspot.com/p/lich-su-uc-phat-thich-ca-mau-ni-tom-tat.html