Trung nguyên ngày vọng hội Vu Lan
Bến Giác chiều thu sóng đạo ngàn
Những ai là người mang ơn nặng
Đều vận lòng thành đón Vu Lan
Đại  Lễ 
Vu Lan còn được gọi là tiết Trung nguyên, đây là một danh từ được  rất 
nhiều sử sách nước ta thường gọi chỉ cho Đại Lễ Vu Lan rằm tháng 7,  
trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, kỷ nhà Lý chép: “Mùa thu tháng bảy năm  
Mậu Tuất (1118) tiết Trung Nguyên, vua Lý Nhân Tông bày cổ bàn, nhân vì 
 lễ Vu Lan Bồn...”.
Châu Bản Triều Nguyễn cũng  có đoạn 
chép: “Năm Minh Mạng thứ XVIII, Đinh Mùi (1837), lại thiết trai  đàn 
tụng kinh 21 ngày đêm, cũng vào tiết Trung Nguyên, tức Vu lan rằm  tháng
 7”. Vậy vì sao Đại Lễ Vu Lan Được gọi là tiết Trung Nguyên?.
Tiết Trung Nguyên là danh từ của Đạo Giáo dùng để gọi lễ hội rằm tháng bảy, đây là “Lễ tiết” theo quan niệm truyền thống của Đạo Giáo. Đạo Giáo cho rằng trong một năm có ba tiết gọi là “Tam Nguyên” là ngày giáng trần của “Tam Quan”. Trong Kinh Thái Thượng Tam Quan của Đạo Giáo
  có chép: “Thiên Quan tứ phước, Địa Quan xá tội, Thủy Quan giải ách... 
 tất cả chúng sanh đều dưới sự cai quản thống nhiếp của Thiên, Địa, Thủy
  Quan...”. Trong tín ngưỡng dân gian gọi tháng bảy là “tết của Quỷ” hay là “Tháng Cô Hồn”.
Tiết 
Thượng Nguyên còn gọi là Thượng  Nguyên Thiên Quan tiết, lễ tiết của đầu
 năm vào tháng giêng, đây là tiết  giáng trần của Thượng nguyên tứ phước
 thiên quan, Tử Vi Đại Đế. Tiết  Trung nguyên còn xưng là Trung Nguyên 
Địa Quan tiết, lễ tiết của giữa  năm, vào tháng bảy, đây là tiết giáng 
trần của Trung Nguyên Xá Tội Địa  Quan, Thanh Hư Đại Đế. Tiết Hạ nguyên 
còn xưng là Hạ Nguyên Thủy Quan  tiết, lễ tiết cuối năm vào tháng mười, 
đây là tiết giáng trần của Hạ  Viên Giải Ách Thủy Quan, Đồng Âm Đại Đế.
Quan niệm của Đạo Giáo cho rằng tiết Trung Nguyên bắt đầu từ ngày mồng 1 tháng 7, ngày “Khai mở quỷ môn”, cho đến ngày 30 tháng 7, ngày “đóng cửa quỷ môn”,
  đây là tiết của quỷ, đây là khoảng thời gian, dưới âm phủ, âm ty mở 
cửa  địa ngục, cho các loài quỷ lên dương thế để thọ hưởng sự cúng tế và
  nhận đồ thế chấp của người thế gian, cũng như tìm người thế mạng.
Người 
trên thế gian vì muốn tránh sự phá  rối cũng như làm tổn hại đến tính 
mạng của mình do các loài quỷ gây ra,  nên đến ngày rằm tháng bảy phải 
lập đàn, thiết lễ, bày các phẩm vật  thực phẩm và các loại vàng mã, hình
 nộm để thế chấp và cúng cấp các loài  cô hồn ngạ quỷ. Lễ cúng tế này 
được Đạo Giáo gọi là Tiết Trung Nguyên.
Căn cứ theo Kinh Huyền Đô Đại Hiến của Đạo Giáo có
  chép: “Ngày 15 tháng 7 là tiết Trung Nguyên vậy.... đây là ngày mà Đại
  Quan kiểm tra xét hỏi, phân biệt các tội thiện ác dưới địa phủ. Chư  
Thiên và Thánh chúng đều ở trong cung, kiểm tra sổ ghi kiếp số của các  
loài quỷ, các loài ngạ quỷ đang bị tù ngục đều được thả ra...”.
Quan niệm của Đạo Giáo cũng như trong tín ngưỡng dân gian tin rằng “Quỷ”
  là những vong hồn chết bất đắc kỳ tử, là chưa đến số chết mà phải 
chết,  chết một cách oan uổn, không cam tâm, không nhắm mắt được, nên 
khi chết  biến thành “Lệ Quỷ” để quay lại báo thù. Cho nên trong 
dân  gian có câu “Làm ác giết người, thì có thể trốn được sự trừng phạt 
của  quốc pháp, chứ đâu tránh khỏi sự trả thù của oan hồn lệ quỷ.”.
Tiết Trung Nguyên của Đạo Giáo cũng như trong dân gian cho rằng, đây là Mùa của “Lệ Quỷ”
  cô hồn nên phải cúng tế cho các loại Lệ quỷ, ăn uống đầy đủ, cúng cấp 
 vàng mã đủ đầy, để giải trừ các oán hờn, không còn trả thù nữa, để được
  thoát hóa đầu thai làm người.
Đạo Giáo
 giải thích về quỷ rằng: “Người  chết thành quỷ, quỷ có nghĩa là quy, ý 
là có chổ để về vậy. Quỷ có chổ  để về, thì không thành Lệ quỷ. Nói chổ 
về là chỉ khi chết được an táng  đàng hoàng, được con cháu thờ cúng.”.
Tiết 
Trung Nguyên của Đạo Giáo các Đạo  sĩ thường lập Đàn Huyền Đô Đại Trai, 
để cúng tế cầu nguyền cho các ngạ  quỷ không người thờ tự và cúng cấp, 
các loại cô hồn lệ quỷ được ăn uống  no đủ, siêu thoát để đi đầu thai, 
đây là phương pháp của Đạo Giáo tế độ  cô hồn.
Trong kinh Huyền Đô Đại Hiến của Đạo Giáo có
  chép: “Vào ngày rằm tháng bảy làm đàn Huyền Đô Đại Trai, bày đầy đủ 
các  thứ hoa quả, những vật dụng cúng tế quý trong thế gian... hiến cúng
 chư  Thánh Chúng và Đạo sĩ… trong suốt ngày tháng thiết đàn giảng tụng 
kinh  pháp, thập phương Đại Thánh, cao lộc linh thiêng, tội đồ ngạ quỷ, 
đương  thời giải thoát...”.
Khác với
 quan niệm của Đạo Gia chỉ cúng  tế và thế chấp đồ vàng mã, để tránh sự 
phá rối và báo thù của các loài  ngạ quỷ, Đại Lễ Vu Lan rằm tháng bảy 
của Phật Giáo chủ trương “Mùa Báo hiếu”  mọi người nên học
 hạnh hiếu thảo với cha mẹ, làm việc thiện tích góp  công đức, trai Tăng
 cúng dường, hồi hướng cho cha mẹ hiện đời và nhiều  kiếp về trước được 
siêu sanh về Tịnh độ, và lập đàn chẩn tế cầu siêu bạt  độ cho những âm 
hồn, quỷ đói, thọ dụng cam lộ pháp thực và cầu nguyện  cho họ xã bỏ các 
oán hờn phiền não, vãng sanh về cỏi Phật.
Phật 
Giáo Đời Đường, là thời kỳ phát  triển mạnh mẽ của tất cả các tôn giáo 
có mặt ở Đông độ, hai quan niệm  của Phật Giáo và Đạo Giáo, cùng chung 
một tâm từ, nhưng hoàn toàn khác  nhau về tư tưởng cũng như cách thức, 
cuối cùng hai quan niệm này được  hợp nhất lại thành một ý niệm chung, 
trong một lễ hội, đó là lễ hội “Trung Nguyên Phổ Độ” chính là vào thời Nhà Đường bởi tư tưởng “Tam Giáo Đồng Nguyên”.
Phật 
Giáo với bản lĩnh văn hóa đạo lý  của chính mình, cộng với sự tín sùng 
ủng hộ của triều đình và dân chúng,  nên Đại Lễ Vu Lan của Phật Giáo, 
trên cương vị chủ đạo pháp hội, đã hòa  hợp thành công lễ tiết của người
 Đông độ thành pháp hội mang đậm nét  văn hóa và tinh thần của Phật 
Giáo.
Thành 
công này là do sự ứng thế của Kinh  Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Đà La Ni 
và Cam Lộ Đà La Ni Chú của Phật Giáo  do ngài Thật Xoa Nan Đà dịch vào 
đời Đường. Khoa Du Già Diệm Khẩu, Đàn  Chẩn tế Cô hồn của Phật Giáo được
 hưng khởi từ Ngài Bất Không Tam Tạng,  và sự kiện Ngài Kim Địa Tạng 
thành đạo ở Cửu Hoa Sơn,
Đại Lễ 
Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu  Đảo Huyền, là nương theo từ bi và trí 
tuệ và nguyện lực của chư Phật và  Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não, 
cũng như thoát khỏi tất cả những  thống khổ đảo ngược ở địa ngục của các
 loài ngạ quỷ, do nghiệp thức gây  ra. Trong sách Mạnh Tử quyển thượng Công Tôn Sửu, giải thích về cứu đảo huyền có chép: “Ví như giải cứu người từ trong hoàn cảnh nguy khốn ra vậy”.
Phương 
pháp Cứu đảo huyền trong Đại lễ  Vu Lan là đàn Du Già Diệm Khẩu Chẩn Tế 
Cô Hồn, căn cứ vào Kinh Cứu Bạt  Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Đà La Ni và Cam Lộ Đà
 La Ni Chú. Hai bộ kinh này đều  do Đức Phật vì từ bi thương xót loài 
ngạ quỷ khổ, nên nói pháp phương  tiện để cứu tất cả các loài quỷ đói 
thoát khỏi những nổi thống khổ bị  đảo ngược.
Khi ngài
 Bất Không Tam Tạng đến Trường  An Kinh Đô nhà Đường ở chùa Đại Hưng 
Thiện dịch bộ Du Dà Tập Yếu Diệm  Khẩu Thí Thực Cứu A Nan Đà La Ni Nghi 
Quỹ Kinh lập thành nghi quỹ và thứ  lớp hành trì pháp thí thực, thành 
khoa Phóng Diệm Khẩu tức là nghi thức  Chẩn Tế Cô Hồn của Phật Giáo.
Diệm Khẩu còn một danh từ khác là Diện Nhiên, Theo Kinh Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỉ Đà La Ni:
  “Một thời Phật tại Thành Ca Tỳ La... Bấy giờ Ngài A Nan một mình ở 
Tịnh  thất tu tập thiền định... có một con Quỷ đói tên là Diệm Khẩu đến 
trước  ngài A Nan Bạch rằng: “còn ba ngày nữa là mạng tôi hết, sanh vào 
trong  Ngạ Quỷ....”.
Ngài A 
Nan bạch Phật chuyện này và cầu  Phật khai thị. Bấy giờ Đức Phật vì nhân
 duyên này mà nói Thần chú “Vô  Lượng Oai Đức Tự Tại Quang Minh Thù 
Thắng Diệu Lực Đà La Ni”, nếu trì  tụng thần chú này lập tức giải trừ 
các nổi khổ oan khiên của Ngạ  Quỷ...”.
Nói về 
các loài ngạ quỷ, những đối tượng  để phổ độ trong đàn chẩn tế rằm tháng
 bảy, trong Luận Tỳ Bà Sa chép về  ngạ quỷ như: “... có loại bụng lép 
như chó đói, đầu rối nùi, chân như  khúc củi khô, miệng mũi thường chảy 
ra nước mũi nước dãi, lỗ tai sanh  mủ, nơi mắt chảy ra máu. Có loại cao 
lênh khênh, bụng lớn như cái trống,  cổ họng nhỏ như mũi kim, miệng 
thường phựt ra lửa, thân hình hôi hám,  lông cứng nhọn như gai. Các loài
 ngạ quỷ khác thân thể còn ghê gớm xấu  xa hơn nữa”.
Vì những
 nỗi khổ vô cùng vô tận của loài  ngạ quỷ, khi ăn uống thức ăn đều biến 
thành lửa, thường xuyên bị đói  khác hành hạ, vì lòng từ bi phổ độ nên 
trong Kinh Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ  Quỉ Đà La Ni; Phật thuyết thần chú “Biến Thực Chân Ngôn” trong Cam Lộ Đà La Ni Chú, Phật thuyết thần chú “Cam Lộ Chân Ngôn”,
  khi trì tụng hai thần chú này tất cả các thực phẩm đều biến thành cam 
 lộ pháp thực và các loài ngạ quỷ đều có thể thọ dụng, vì vậy hai thần  
chú này là tâm điểm của Đàn Chẩn Tế.
Bồ Tát 
Địa Tạng với Đại nguyện “Nguyện  độ hết chúng sanh, thì mới thành Phật”.
 theo truyền thuyết cho rằng Ngài  Kim Kiều Giác tu hành ở núi Cửu Hoa 
Sơn là hóa thân của Bồ Tát Địa  Tạng, xuống trần gian để cứu độ chúng 
sanh. Đời Đường ngày 30 tháng 7,  niên hiệu Khai Nguyên thứ 16, Kim Địa 
Tạng ở Cửu Hoa Sơn tu hành đắc  đạo.
Theo lời
 Phật dạy trong Kinh Địa Tạng  Bổn Nguyện, mọi người đều tin rằng Đức 
Địa Tạng thọ sự phó chúc của  Phật, sau khi Phật diệt độ, và trước khi 
Đức Phật Di Lặc ra đời trong  khoảng thời gian thế gian không có Phật 
tại thế, cho nên Ngài thay Phật  giáo hóa hữu tình chúng sanh trong lục 
đạo, nhất là chúng sanh đang trầm  luân trong địa ngục, cứu độ cho họ 
được thoát khỏi địa ngục và khuyến  hóa tạo các duyên lành để sau này họ
 được duyên gặp Phật.
Ngày 30 
tháng bảy theo tín ngưỡng Phật  Giáo cũng như dân gian là ngày Khánh đản
 của Địa Tạng Bồ Tát, niềm Tin  về sự cứu độ của Đức Địa Tạng Bồ Tát, 
trong chốn U Minh, cho nên trong  dân gian tôn xưng Ngài là “Giáo chủ 
cõi U Minh” vì là giáo chủ cõi u  minh, nên Ngài thống lãnh 10 vị vua 
trong cõi U
 Minh là “Thập Điện Minh  Vương” vì vậy Ngài được phong đế hiệu là 
“Phong Đô Đại Đế” quyền miễn xá  tội lỗi và cho đi đầu thai trong Địa 
Phủ đều do Ngài Địa Tạng quyết  định.
Tín 
ngưỡng Phật Giáo và dân gian tin  rằng nếu niệm danh hiệu Bồ Tát Địa 
Tạng, hoặc cúng dường Trai Tăng Vu  Lan Bồn trong Tiết Trung Nguyên và 
nhân ngày 30 tháng 7, ngày Khánh Đản  của Ngài, thì những hương linh quá
 cố của họ sẽ được miễn xá các tội lỗi  và được Ngài độ thoát.
Tiết 
Trung Nguyên, ngày mồng 1 tháng bảy  mở cửa địa ngục, để cho cô hồn ngạ 
quỷ lên thế gian, thọ hưởng cúng tế,  đến ngày 30 tháng bảy thì đóng cửa
 Địa ngục, nên các loài ngạ quỷ cô  hồn trở về địa phủ. Đây là theo quan
 niệm của Đạo Giáo, sau khi Đại Lễ  Vu Lan Bồn của Phật Giáo cùng tiết 
Trung Nguyên kết hợp lại trên tinh  thần “Tam Giáo Đồng Nguyên”, thì ý niệm Đạo Tràng Phổ Độ chúng sanh do Ngài Địa Tạng Bồ Tát làm giáo chủ được ra đời.
Ngày 30 
tháng bảy đóng cửa địa ngục của  Đạo Giáo trở thành ngày phổ độ chúng 
sanh của Địa Tạng Vương Bồ Tát,  thay vì phải trở về địa phủ chịu khổ, 
thì tất cả các vong hồn ngạ quỷ  được Đức Địa Tạng cứu độ vãng sanh về 
Tịnh độ, không còn phải sa vào  cảnh khổ địa ngục, vì vậy tiết Trung 
Nguyên được gọi là Trung Nguyên Phổ Độ, tháng bảy trong dân gian có câu truyền tụng “Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân”.
Lập Đàn Chẩn Tế “Phóng Diệm Khẩu”
  bạt độ hết thảy các loài cô hồn ngạ quỷ thoát khổ địa ngục, vãng sanh 
 Tây Thiên, và chính những người phát tâm lập đàn cúng tế, bản thân họ  
sau khi chết nếu sa vào địa ngục sẽ được Ngài cứu độ, cho nên tiết Trung
  Nguyên được gọi là Trung Nguyên Phổ Độ, với ý nguyện bình đẳng độ 
thoát  hết thảy muôn loài, và trong dân gian gọi là ngày “xá tội vong nhân” đều có nguồn gốc từ đây.
Tiết 
Trung Nguyên từ một lễ tiết cúng  cấp cho các loài ngạ quỷ của Đạo Giáo,
 trở thành một lễ tiết văn hóa  mang đậm nét nhân văn hiếu đạo của Đông 
độ. “Trung Nguyên Phổ Độ”  trong Đại Lễ Vu Lan Phật Giáo 
Bắc Truyền, mang dấu ấn tinh thần báo  hiếu và từ bi của Đạo Phật, được 
phổ biến rộng rãi trong dân gian, đã  trở thành một lễ hội quan trọng 
nhất trong sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng  của người Đông Độ, đồng thời 
thể hiện sự tùy duyên bất biến của Đạo  Phật, trong nguyện lực hoằng 
pháp lợi sinh.
T.T.M