Nhẫn
nhục là bậc nhất
Phật
nói vô vi hơn
Không
do cạo râu tóc
Làm sa môn hại người
Một trăm năm sau, trong chúng phát sinh lỗi lầm, đức
Phật mới lập giới cấm.
Kế là đức Phật
hiệu là Thi-khí Như Lai ra đời, bấy giờ Thánh chúng cũng có ba hội. Trong 80
năm đầu, Thánh chúng thanh tịnh, Phật chỉ dùng một bài kệ làm giới cấm :
Nếu
mắt thấy tà vạy
Người
trí giữ không đắm
Xả
bỏ các điều ác
Là trí tuệ ở đời
Về sau, trong chúng phát sinh lỗi lầm, Phật
mới đặt ra giới cấm.
Trong Hiền kiếp ấy, đức Phật hiệu là Tì-xá-la-bà ra đời,
bấy giờ Thánh chúng cũng có ba hội. Trong 70 năm đầu, Thánh chúng thanh tịnh,
Phật chỉ dùng một bài kệ làm giới cấm :
Không
hại cũng không quấy
Vâng
giữ theo đại giới
Ăn
uống biết vừa đủ
Giường
tòa cũng như vậy
Chuyên
tâm và chí thành
Là lời chư Phật dạy
Về sau, trong chúng phát sinh lỗi lầm,
Phật mới đặt ra giới cấm.
Trong Hiền kiếp ấy, đức Phật hiệu là Câu-lưu-tôn ra đời, bấy giờ Thánh chúng có hai
hội. Trong 60 năm đầu, Thánh chúng thanh tịnh, Phật chỉ dùng một hai bài kệ làm
giới cấm :
Ví
như ông hút hoa
Sắc
hoa rất sạch thơm
Lấy
vị ngọt cho người
Đạo sĩ vào làng xóm
Không
chê bai việc người
Cũng
không nhìn phải quấy
Chỉ
tự quán thân hạnh
Quán kỹ chánh không chánh
Về sau, trong chúng phát sinh lỗi lầm,
Phật mới đặt ra giới cấm.
Trong Hiền kiếp ấy, đức Phật hiệu là Câu-na-hàm Mâu-ni Như Lai ra
đời, bấy giờ Thánh chúng có hai hội. Trong 40 năm đầu, Thánh chúng thanh tịnh,
Phật chỉ dùng một bài kệ làm giới cấm :
Giữ
chí chớ khinh lờn
Nên
học đạo vắng lặng
Bậc
hiền không lo buồn
Nên giữ tâm tịch diệt
Về sau, trong chúng phát sinh lỗi lầm,
Phật mới đặt ra giới cấm.
Khi đức Phật hiệu là Ca-diếp ra đời, bấy giờ Thánh chúng có hai hội.
Trong 20 năm đầu, Thánh chúng thanh tịnh, Phật chỉ dùng một bài kệ làm giới cấm
:
Chớ
làm các điều ác
Vâng
làm các điều lành
Giữ
tâm ý thanh tịnh
Là lời chư Phật dạy
Về sau, trong chúng phát sinh lỗi lầm,
Phật mới đặt ra giới cấm.
Khi Phật Thích-ca Mâu-ni Như Lai ra đời, có một hội Thánh chúng gồm 1250
người. Trong 12 năm đầu không có người phạm giới, Phật dùng một bài kệ làm giới
cấm:
Giữ
miệng ý thanh tịnh
Thân
hành cũng thanh tịnh
Thanh
tịnh ba hạnh này
Tu hành đạo tiên nhân
Về sau, trong chúng phát sinh lỗi lầm,
Phật mới có 250 giới cấm v.v…
Thời kỳ tăng chúng được thanh tịnh
không cần đến giới luật, giảm dần qua các đời. So với Thánh chúng trong các hội,
thánh chúng của Phật Thích-ca cũng rất ít. So với tuổi thọ của các Phật trước, tuổi
thọ của Phật Thích-ca cũng rất ngắn. Tuy vậy, sau khi các đức Phật quá khứ diệt
độ, pháp không trụ lâu ở đời. Chỉ sau khi Phật Thích-ca diệt độ, chánh pháp mới
trụ lâu ở đời. Trong kinh, Phật nói với ngài A-nan: “Không nên nghĩ đệ tử của ta ít. Đệ tử của ta ở phương đông nhiều vô ức
ngàn, ở phương nam cũng vô số ức ngàn. Cho nên, này A-nan! Hãy nghĩ như vầy:
Phật Thích-ca của ta thọ mạng rất dài lâu. Vì sao? Vì nhục thân tuy diệt độ
nhưng pháp thân tồn tại. Đây là nghĩa vừa nói. Ông hãy ghi nhớ lấy!”.[1] Điều
này ứng với việc Phật đã nói khi vừa sinh ra và đi đến bước thứ bảy: “ Trên
trời dưới đất chỉ mình ta là tôn quí ”. Ta, chỉ cho pháp thân mà Phật đã nói, là
tánh thể mà chúng sinh và Phật đồng có, chỉ do mê hay ngộ mà ẩn hay hiển, không
phải chỉ cho nhục thân hay cái tôi của Thích-ca Mâu-ni.
Lâu xa về sau, đến thời Phật Di-lặc ra đời, khi ấy ở
Diêm-phù-đề, các thứ núi sông vách đá đều tự tiêu diệt, đất đai bằng phẳng ngay
ngắn như gương sáng, thời tiết khí hậu điều hòa, thân người không có tham dục,
sân nhuế, ngu si, lười biếng v.v… Y phục tự có. Đại địa tự nhiên sinh lúa. Tiền
tài của cải như ngói gạch không ai quan tâm. Lúc ấy có một đại thần tên là
Tu-phạm-ma, không cao không thấp, không mập không ốm, không trắng không đen,
không già không trẻ. Vợ là Phạm-ma-việt, không có tám mươi bốn trạng thái của
người nữ, không bệnh, ý không tán loạn. Ở cung trời Đâu Suất, Bồ-tát Di-lặc
quán sát thấy cha mẹ không già không trẻ, liền giáng thần hạ sinh từ hong bên
phải như Thích-ca. Ngài cũng có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, thân
màu hoàng kim. Đại thần đặt tên cho con là Di lặc.
Di-lặc ở nhà không bao lâu bèn xuất gia
học đạo. Xuất gia vào nửa đêm, ngay đêm đó thành đạo dưới cội Long Hoa. Cõi
nước rung động theo sáu cách. Địa thần bảo nhau: “Di-lặc đã thành Phật”. Lời ấy
truyền đến cung trời Tứ thiên vương, rồi đến Tam thập tam thiên, Diệm-ma thiên,
Đâu suất thiên v.v… Ma vương đem vô số chư Thiên cõi dục đến lễ bái cung kính. Cha
Tu-phạm-ma, mẹ Phạm-ma-Việt, trưởng giả Thiện Tài v.v… mỗi người đều mang tám
muôn bốn ngàn người đến chỗ Di-lặc. Di-lặc vì họ mà thuyết pháp Tứ đế, bố thí,
trì giới v.v…
Phật Thích Ca nói với đệ tử hành 12
hạnh đầu đà là Đại Ca-diếp, Sơ tổ của Thiền tông, như sau: “Này Đại Ca-diếp! Ông không nên nhập niết bàn.
Nên đợi đến khi Di-lặc ra đời. Vì sao? Vì đệ tử của Phật Di-lặc giáo hóa đều là
đệ tử của ta, do ta hóa độ để lại, đã sạch hữu lậu. Đại Ca-diếp sẽ trụ trong
núi ở thôn Tì-đề xứ Ma-kiệt cho đến khi Phật Di-lặc mang đại chúng vây quanh núi.
Nương ân đức Phật, các quỉ thần vì Phật mở cửa, khiến mọi người thấy được
Ca-diếp đang tọa thiền trong đó. Thấy rồi, vô số chúng sinh chấm dứt trần cấu
được pháp nhãn thanh tịnh. Chín mươi sáu ức người đều chứng La-hán. Vì sao? Vì
đều nhận sự giáo hóa của ta. Cũng do nhân duyên bốn món cúng dường : Bố thí,
nhân ái, lợi hành và đồng sự. Này A-nan! Bấy giờ Di-lặc sẽ đắp y tăng-già-lê
của Ca-diếp. Khi đó thân thể Ca-diếp tan rã. Di-lặc liền mang các thứ hương hoa
cúng dường Ca-diếp. Vì sao? Vì chư Phật Thế Tôn đều có tâm cung kính đối với
chánh pháp. Di-lặc cũng do chánh pháp hóa mà có được, thành tựu đạo vô thượng
chánh giác”. Xem ra, Đại Ca-diếp tuy không lộ diện, nhưng lại chính là
người nắm giữ mạng mạch Phật pháp từ thời Phật Thích-ca cho đến Di-lặc.
Thời
Di-lặc, trong 1000 năm đầu, chúng tăng không lỗi lầm. Di-lặc thường dùng một
bài kệ làm giới cấm:
Miệng
và ý không ác
Thân
cũng không phạm ác
Nên
trừ ba hạnh này
Chóng thoát vượt sinh tử
Về sau, trong chúng phát sinh lỗi lầm,
Di-lặc mới lập giới cấm.
Phật Di-lặc thọ tám vạn bốn ngàn tuổi,
pháp để lại tồn tại tám vạn bốn ngàn năm. Vì chúng sinh thời ấy đều là hàng lợi
căn. Ngài nói: “Trong chúng này có đệ tử
của Phật Thích-ca thời quá khứ từng tu phạm hạnh mà đến chỗ ta. Hoặc ở nơi
Thích-ca vâng giữ pháp ấy mà đến chỗ ta. Hoặc ở nơi Thích-ca cúng dường Tam bảo
mà đến chỗ ta. Hoặc ở nơi Thích-ca tu căn lành trong khoảng khảy móng tay mà
đến chỗ ta. Hoặc ở nơi Thích-ca tu Tứ vô lượng tâm mà đến chỗ ta. Hoặc ở nơi
Thích-ca thọ trì tam qui ngũ giới mà đến chỗ ta. Hoặc ở nơi Thích-ca tạo dựng
tháp miếu chùa viện mà đến chỗ ta. Hoặc ở nơi Thích-ca sửa sang chùa cũ mà đến
chỗ ta. Hoặc ở nơi Thích-ca thọ trì Bát quan trai mà đến chỗ ta. Hoặc ở nơi
Thích-ca dùng hương hoa cúng dường mà đến chỗ ta. Hoặc ở nơi Thích-ca nghe Phật
pháp buồn khóc rơi lệ mà đến chỗ ta. Hoặc ở nơi Thích-ca suốt đời tu phạm hạnh
mà đến chỗ ta. Hoặc ở nơi Thích-ca viết kinh đọc tụng mà đến chỗ ta. Hoặc ở nơi
Thích-ca thừa sự cúng dường mà đến chỗ ta”. Xem ra, hội Long Hoa gần như ai
cũng có phần. Chỉ cần tu căn lành trong khoảng một khảy móng tay là đã gieo được
cái nhân để gặp Phật Di-lạc trong tương lai, huống là đọc tụng, biên chép, thọ
trì các kinh luận Đại thừa. Đã gieo nhân thì đủ duyên sẽ có quả. Nhanh hay
chậm, lâu hay mau là do chúng ta tỉnh giác mau hay chậm, chịu tinh tấn tu hành hay
giải đãi làm biếng v.v… Song chỉ khi tâm không rơi vào nhị biên phân biệt, ý
không tán loạn, thì Di-Lặc trong mỗi chúng ta mới thật sự đản sinh.
Phật
Thích-ca dạy: “Thiện nam tử, thiện nữ
nhân nào muốn được gặp Di-lặc và ba hội chúng thanh văn, muốn ăn lúa thóc tự
nhiên và y phục tự nhiên, sau khi chết sinh cõi trời thì hãy nên gắng sức tinh
tấn, đừng sinh giải đãi, nên cúng dường thừa sự các Pháp sư, cúng dường các thứ
hương hoa hương thơm đừng để thiếu thốn…”. Cúng dường trân châu, mã não,
đất đai, chùa chiền v.v… thì có khi chúng ta không đủ điều kiện, nhưng cúng
dường hương hoa hay thừa sự các Pháp sư thì chắc không khó. Chỉ là tùy tâm của
mỗi người có chịu thừa sự, lấy đó làm pháp cúng dường không thôi.
Nhân mùa Phật đản, xin nguyện tất cả chúng sinh, dù là
Phật tử hay chưa là Phật tử, đều được “Miệng
và ý không ác. Thân cũng không làm ác”, lấy đó làm ‘pháp cúng dường’ cúng
dường mười phương chư Phật cùng tất cả chúng sinh trong mười phương pháp giới.
[1]Kinh Tăng Nhất A-hàm quyển 3.
Chân hiền tâm