Có nhiều người cho rằng ngày mồng
một Tết là ngày vía đản sanh của đức Di-lặc. Tôi chưa biết đó là ngày
đản sanh của Hóa thân nào, vào thời đại nào.
Bởi vì lịch sử của Bồ-tát ứng thân vô lượng, làm sao chúng ta căn cứ một
bề, lấy đó làm tiêu chuẩn. Chúng tôi chỉ biết một điều thật là quan
trọng trên danh nghĩa Di-lặc mà chúng ta thường tụng thường nguyện.
Khi chúng ta tụng: Nam-mô Long Hoa giáo chủ đương lai hạ sanh Di-lặc Tôn
Phật, đó là thể theo lời huyền ký của đức Bổn sư Thích-ca Mâu-ni rằng,
sau khi Bồ-tát Di-lặc sanh lên cung trời Đâu-suất mãn công hạnh, sẽ đến
thế giới Ta-bà này thuyết giảng. Lúc tuổi thọ con người giảm tột cùng
chỉ còn mười tuổi, rồi do nhờ phát tâm tu hành, gìn giữ Thập thiện, tuổi
thọ tăng lên đến sáu mươi bốn ngàn tuổi, chừng đó đức Phật Di-lặc ra
đời. Như vậy thời gian Ngài ra đời còn xa lắm. Tôi đã từng nói mỗi đức
Phật ra đời không làm việc trùng lập nhau. Bao giờ giáo lý của đức Phật
Thích-ca Mâu-ni, danh từ Tam Bảo không còn được biết tới nữa thì đức
Phật Di-lặc mới ra đời.
Đức Phật Thích-ca được gọi là Ta-bà giáo chủ, là vị Giáo chủ trong cõi
Ta-bà này. Còn đức Phật Di-lặc sẽ thành đạo dưới cội Long Hoa, cho nên
được gọi là Long Hoa giáo chủ. Tuy thời gian Ngài ra đời còn lâu xa,
nhưng chúng ta tin rằng tương lai sẽ có Phật ra đời. Đức Phật ra đời, đó
là một diễm phúc cho chúng sanh, là ngọn đuốc sáng cho nhân loại. Vì
vậy khi nghĩ đến đức Phật ra đời, chúng ta cảm thấy cả một nguồn hạnh
phúc an lành. Ngày mồng một Tết là ngày vía đức Phật Di-lặc, cũng là
ngày hứa hẹn hạnh phúc cho chúng sanh. Hạnh phúc bằng cách giải thoát
khổ đau, ra khỏi luân hồi, chớ không phải hạnh phúc trong ngũ dục tầm
thường. Đầu năm Tăng Ni cùng Phật tử lễ vía đức Phật Di-lặc, Ngài là
hình ảnh bên ngoài mà cũng là sự hứa hẹn ở nội tâm chúng ta. Nhớ đến đức
Phật sẽ thành, chúng ta cũng nhớ luôn mai kia mình sẽ thành Phật. Vì
vậy chúng ta không chỉ lạy đức Phật với lòng thành kính, mà còn cầu chúc
cho nhau một mùa Xuân hứa hẹn sẽ thành Phật. Đó là ý nghĩa thâm sâu của
ngày vía đức Phật Di-lặc.
Bây giờ chúng ta đi vào ý nghĩa hình tượng của Ngài. Chắc rằng chúng ta
ai cũng từng thấy hình tượng đức Di-lặc ở các ngôi chùa. Có khi người ta
thờ Ngài với vẻ mập mạp, cười toe toét; có chỗ khác cũng thờ hình tượng
như vậy mà có sáu đứa nhỏ: đứa thì chọc ngón tay vô rún, đứa thì móc lỗ
mũi, đứa thì móc miệng, đứa thì dùi lỗ tai v.v... mà Ngài cứ vui cười
không phiền, không chướng ngại gì hết.
Tại sao như vậy? Hình ảnh đó nói lên cái gì? Điều này rất thiết yếu,
chúng ta nên chú tâm như trong kinh Lăng Nghiêm, có đoạn mười phương chư
Phật dị khẩu đồng âm tuyên bố cho ngài A-nan và đại chúng: “Khiến ông
phải luân hồi sanh tử, chính là sáu căn của ông, chớ không phải vật gì
khác; khiến ông chóng chứng Vô thượng Bồ-đề, cũng chính là sáu căn của
ông, chớ không phải vật gì khác.” Như vậy cội gốc sanh tử cũng là sáu
căn của chúng ta: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; cội gốc Bồ-đề Niết-bàn
cũng là sáu căn của chúng ta. Như vậy con đường trở về giác ngộ hay con
đường sanh tử luân hồi là một hay hai? Sanh tử luân hồi cũng đi con
đường đó mà Bồ-đề Niết-bàn cũng đi con đường đó, có khác nhau. Người thì
đi theo chiều thuận gọi là thuận lưu, người đi theo chiều nghịch, gọi
là nghịch lưu. Đi theo chiều thuận là sanh tử luân hồi, đi theo chiều
nghịch là giải thoát sanh tử. Như vậy thì không có hai đường. Ví dụ
chúng ta về Sài Gòn, cũng đi trên đường Vũng Tàu - Sài Gòn. Sài Gòn -
Vũng Tàu cũng đi đường đó. Nhưng nói về Sài Gòn là đi trở về, nói đi
Vũng Tàu là đi trở ngược ra. Chỉ khác một người đi trở ra, một người đi
trở vô thôi. Khác nhau ở chỗ đó. Đường thì một mà hai người đi nghịch
hoặc thuận chiều, kết quả sẽ có hai ngả khác nhau, và hai địa điểm khác
nhau. Cũng như vậy, nếu sáu căn của chúng ta nếu ta thuận chiều với nó,
đó là chúng ta đi trong luân hồi sanh tử. Chúng ta đi ngược chiều với nó
là chúng ta trở về Niết-bàn, Bồ-đề, giải thoát v.v... Nếu sáu căn đi
theo sáu trần gọi là thuận lưu, đi theo chiều luân hồi. Nếu sáu căn
không chạy theo sáu trần, không nhiễm, không dính, không mắc, đó là
người trở về Bồ-đề Niết-bàn không đâu xa lạ. Như vậy để thấy rõ con
đường tu tuy có rất nhiều, nhưng sự tu căn bản chỉ đừng cho sáu căn chạy
theo sáu trần bên ngoài. Đức Phật Di-lặc là một vị Phật sẽ thành ở ngày
mai do Ngài tu hạnh gì? Chính hình ảnh đó là câu trả lời cụ thể nhất.
Mỗi đứa bé soi lỗ tai móc lỗ mũi của Ngài mà Ngài vẫn cười không tỏ vẻ
bực dọc, không tỏ vẻ chướng ngại buồn bã. Vì vậy Ngài sẽ thành Phật chắc
chắn.
Còn chúng ta thì sao? Nếu ai móc lỗ tai mình thì không đánh cũng đá,
không đập cũng la; móc lỗ mũi mình cũng thế... Như vậy đối sáu căn, có
ai động tới thì chúng ta không chịu nổi. Chỗ không chịu nổi đó làm
chướng ngại chúng ta. Sáu đứa bé gọi là lục tặc, tức là sáu đứa cướp phá
phách. Nhưng thật tình chúng có phá mình hay không? Nếu bị móc lỗ tai
mà mình không cảm thấy khó chịu lại thấy đã ngứa thêm thì không bị
chướng ngại. Hiện tại hầu hết chúng ta đều bị chướng ngại bởi những lời
nói bên ngoài. Nếu những lời chửi mắng gièm pha, nguyền rủa tới lỗ tai,
mà mình coi như gió thổi lá dương cành liễu cho nó nương theo gió đi đâu
thì đi, đừng vướng mắc tự nhiên mình an lành tự tại. Nếu thấy đó là lời
nói thù hằn, mỉa mai sâu độc mà mình bực bội tức tối, ghi nhận nó vào
với những tâm niệm hận thù, đen tối thì nó sẽ thành giặc cướp làm tan
hoang của báu nhà mình. Tai nghe những tiếng khen chê hoặc là chửi bới
đề cao v.v... mình cũng xem thường, vì tiếng nói không thật. Chính bản
thân mình còn không thật, huống là tiếng nói bên ngoài. Tâm không động
đó là mình đã thắng đứa bé móc lỗ tai rồi.
Khi con mắt thấy tất cả hình ảnh phía trước, có đẹp có xấu, dù hình ảnh
nào mình cũng dửng dưng không lay động không dính mắc, như vậy bao nhiêu
hình ảnh dàn trải tràn trề trước mắt, mình cũng vẫn an lành tự tại.
Ngược lại khi thấy một hình ảnh, mình liền cho là đẹp là xấu, đẹp thì sợ
mất, xấu thì sanh tâm bực tức, thế là hình ảnh nào cũng gây phiền não
hết, không có hình ảnh nào là an vui tự tại. Sự thật những hình ảnh đó
có phải là phiền não không? Phiền não là tự ai? Gốc tại mình. Nếu thấy
nó mà không luyến ái, không ghét bỏ, thì nó vẫn là nó. Có lỗi lầm gì
đâu! Lỗi lầm là chính lòng luyến ái, lòng sân hận của mình chớ không
phải hình ảnh có lỗi lầm. Khi chứa chấp sân hận, chứa chấp luyến ái, thì
của báu nhà mình bị cướp mất. Con mắt đem những hình ảnh vào để cướp
mất của báu nhà mình, đó là cái chướng biểu trưng qua hình ảnh đứa bé
móc mắt. Còn nếu ngược lại mình không mắc kẹt, hình ảnh là hình ảnh,
mình vẫn an nhiên, thì đứa bé ấy có làm gì thì làm, mình vẫn an ổn.
Lỗ mũi cũng thế, ngửi mùi hôi mùi thơm đừng mắc kẹt, coi như khói như
gió vừa qua mũi rồi mất, không có gì thật, thì có gì làm cho mình nhiễm,
tự nhiên trong lòng được tự tại. Ngược lại, tại chúng ta si mê, cho nên
mùi thơm đến thì thích, mùi hôi đến thì bực. Do đó tự mình đem giặc vào
cướp của báu nhà mình, tự làm chướng ngại.
Như lưỡi chúng ta nếm những vị cay, đắng, mặn, ngọt; cái nào hợp thì
thích, cái nào không hợp thì không thích. Vì vậy mà chúng ta chạy tìm
kiếm, khổ từ năm này sang năm khác. Mỗi khi lên mâm cơm, thấy món gì
mình cảm nghĩ là hợp với lưỡi của mình thì vui, món gì không hợp thì
bực. Vui và bực đó làm mình phải chướng, rồi nói lời thô ác làm cho
người chung quanh không vui. Vì lẽ đó chúng ta tập cho lưỡi mình đừng
tham đắm vị. Tất cả cái ngon cái dở chẳng qua là tạm mà thôi, cốt sao
cho mình được an ổn tu hành là quí. Như vậy chúng ta thắng được các thứ
vị, tức là đã thắng đứa bé móc miệng rồi.
Tôi đã đơn cử các căn như mắt tai mũi lưỡi để thấy chúng ta tu là phải
tu ngay tại sáu căn của mình, đó là các cơ quan hằng tiếp xúc với những
hoàn cảnh thuận tiện làm cho mình ưa, những hoàn cảnh trái ngược làm cho
mình giận. Tuy nói sáu căn chớ thật tình có năm căn quan trọng, tức là
mắt tai mũi lưỡi thân, năm cửa đón tiếp bên ngoài. Mỗi khi năm căn tiếp
xúc với năm trần thì ý theo đó phân biệt để thương ghét buồn giận. Vì
vậy, ngay năm căn kia mà chúng ta đón nhận đúng pháp thì căn thứ sáu (ý
căn) không còn trở ngại nữa. Khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà chúng
ta mắc kẹt, nhiễm theo thì gọi là sáu đứa cướp, bởi vì kho báu nhà mình
bị chúng cướp đi. Cướp bằng cách nào? Ví dụ lỗ tai nghe tiếng rồi phân
biệt tiếng khen tiếng chê, sanh buồn sanh mừng là bị mất của. Của đó
giặc mang đi đường nào và lấy ở đâu? Nói suông thì khó biết. Cần phải
biết của mình ở đâu và dấu vết giặc mang đi đường nào, mới có thể giữ
của được.
Sự thật nó không mang đi đâu, đó chỉ là hình ảnh tượng trưng thôi. Nhưng
chúng ta thường nghĩ khi có lấy tức là có mang đi, không ngờ nếu thật
tình nó mang đi thì sau này dù có giữ cũng là giữ cái kho không còn của
đâu mà giữ. Vì vậy phải biết rõ ràng là tuy nói nó cướp của mình, nhưng
không cướp gì hết. Chỉ do năm căn tiếp xúc bên ngoài, rồi tâm mình xao
xuyến hoặc buồn hoặc giận. Đó là những đám mây đen nổi dậy che lấp mặt
trời trí tuệ của mình, gọi là đã cướp. Khi nào nghe những tiếng khen chê
mà trong lòng không xao động, những đám mây đen không nổi dậy, thì mặt
trời trí tuệ của chúng ta vẫn sáng rực, gọi là giữ được của báu.
Khi trí tuệ chúng ta hằng sáng tỏ, lúc đó gọi là giàu. Còn nếu phút giây
nào trí tuệ bị mờ tối không còn phát hiện nữa gọi là mất của báu, ta
nghèo đi. Cái nghèo đó là cái nghèo tạm thời, nhưng cũng có thể là nghèo
muôn kiếp. Nếu giờ phút nào bị mây phiền não che khuất thì chúng ta mất
trí tuệ, nhưng khi nào chúng ta dẹp tan những đám mây đó, thì mặt trời
trí tuệ sáng trở lại gọi là nghèo tạm thời. Còn cứ nuôi dưỡng những đám
mây đen, hết đám này tới đám khác, dù có mặt trời trí tuệ mà cả đời vẫn
sống trong đen tối. Đời này đen tối, đời sau đen tối, cứ tiếp nối như
thế mãi thì không bao giờ hết nghèo. Thế nên người biết tu và không biết
tu khác nhau tại chỗ đó. Dù chúng ta cũng bị cướp của báu, cũng bị mây
đen che lấp mặt trời trí tuệ, nhưng chúng ta tin rằng chỉ bị che trong
một phút một giây, rồi sẽ sáng lại.
Vì vậy ý nghĩa Đương lai hạ sanh của đức Phật Di-lặc là một ý nghĩa hứa
hẹn trong tâm chúng ta, chúng ta sẽ sáng ra ở ngày mai chớ không tối
mãi. Đó phải là cái hứa hẹn thật sự chớ không phải hứa hẹn suông, hứa
hẹn rỗng. Có người cũng hứa hẹn, nhưng hứa hẹn suông, nghĩa là cũng có
hình thức người tu, đi chùa lễ Phật, nhưng cứ chất chứa bao nhiêu phiền
não. Tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, cứ như thế mà dồn hết vào trong lòng.
Lo kiếm những món ngon, lo chứa những mùi thơm, lo chứa những hình
tướng đẹp v.v... cả ngày cứ xao xuyến lo buồn làm khuất đi mặt trời trí
tuệ sáng ngời, cho nên phải chịu khổ đen tối. Còn người biết tu, khi trí
tuệ bị che khuất thì hối hận, ăn năn cố làm cho tan đám mây mờ, và
nguyện làm sao đừng để mặt trời trí tuệ bị che khuất phút giây nào hết.
Đó là hứa hẹn thật, hứa hẹn của người biết tu, chớ không phải hứa hẹn
suông.
Chính chỗ thiết yếu đó mà đức Phật Di-lặc được gọi là con người hạnh
phúc, con người hạnh phúc thường mập mạp vui tươi. Cái mập mạp vui tươi
đó là nhờ trong lòng không có những đám mây phiền não che lấp mặt trời
trí tuệ, mà dù sáu đứa giặc có móc tai, móc mũi v.v... Ngài vẫn thấy như
không. Còn chúng ta thấy chướng nên trán nhăn, mày cau, mắt đỏ, gương
mặt đau khổ. Cái khổ đó chính vì mình không chịu nổi sáu đứa giặc phá
phách nên tự nhiên sanh ra bực dọc, khó chịu. Nếu nó phá phách mà mình
không thấy chướng, thì cái phá đó trở thành đùa vui với nhau. Chúng ta
không ai chẳng có sáu đứa giặc, sáu đứa cướp đó nhưng nó thành giặc hay
bạn là chính tại mình. Thế nên biết tu nơi sáu căn rồi tự nhiên được an
lành tự tại. Dù chưa thành Phật, hiện đời ta cũng hạnh phúc tràn trề.
Ngày nào tháng nào cũng đều là ngày tháng vui tươi, năm nào cũng là năm
đẹp đẽ. Vì vậy mà chúng ta hay chúc nhau một mùa Xuân viên miễn.
Đó là mùa Xuân Di-lặc, mùa Xuân hạnh phúc, mùa Xuân mà trong lòng không
phiền muộn lo âu. Còn lo âu, còn phiền muộn thì chưa phải là hạnh phúc.
Cho nên nhớ đến đức Phật Di-lặc, nhớ đến sáu đứa bé móc tai, móc mũi của
Ngài, chúng ta nên hằng giờ hằng phút kiểm điểm lại mình, thử xem giặc
có cướp của mình hay không. Nếu chúng ta cứ nuôi dưỡng sáu đứa giặc
khiến chúng luôn cướp của mình, thì dù có khao khát nguyện cầu thành
Phật mấy đi nữa, quả Phật cũng còn xa lơ xa lắc. Trái lại nếu chúng ta ở
mọi trường hợp, đi đứng nằm ngồi, tiếp duyên đối cảnh, đều sống đúng
với tinh thần của đức Phật Di-lặc thì tôi tin rằng dù không cầu được an
vui, tự nhiên cũng được an vui, không cầu thành Phật, tự nhiên cũng
thành Phật.
Tóm lại chỗ tu thiết yếu là biết trở về mình, chính là đừng để cho sáu
căn dẫn giặc vào, gọi là nghịch lưu. Nghịch lưu tức là trở về Tánh giác.
Còn nếu luôn luôn bị sáu căn dẫn giặc về cướp mất của báu nhà mình gọi
là thuận lưu, tức là thuận theo chiều sanh tử. Do đó, hôm nay nhân ngày
vía đức Phật Di-lặc và cũng là ngày Tết Nguyên Đán, tôi cầu chúc cho tất
cả quí vị Tăng Ni, cư sĩ nam nữ đều trở về nguồn giác của mình. Nguyện
cầu cho tất cả quí vị kể từ ngày mồng một Tết này cho đến trọn năm và
cho đến suốt đời đều luôn luôn là “bối trần hiệp giác”.
Trích từ sách: Xuân trong cửa thiền HT Thích Thanh Từ
http://vuonhoaphatgiao.com/tin-chi-tiet/duc-phat-di-lac-va-y-nghia-sau-dua-be-quanh-ngai-2457/