Những đêm mưa bão thì mẹ choàng lên người một chiếc
áo lạnh bằng len cũ kỹ máu xám tro, đăm chiêu nhìn về phía trời xa.
Cách đây ba tháng, thấy mẹ cực khổ ở quê, vợ chồng tôi năn nỉ mãi mẹ
mới chịu về thị xã sống với con cháu. Ba tôi mất đã hai mươi năm, mẹ vẫn
sống thui thủi một mình ở quê nghèo. Lâu lâu mẹ lại đón xe đi thăm từng
đứa con với vài đòn bánh tét, vài chục bánh ít nước tro kèm theo mấy
nải chuối sáp cho lũ nhỏ.
Đêm nay, mẹ tôi không ngủ. Có một cơn bão đang tràn về khắp thị xã.
Gió thổi phần phật kèm theo tiếng rú rít hù hù, hàng cây sao bên đường
chao qua chao lại để chống chọi cơn giận dữ của bão giông. Mẹ vẫn ngồi
đó lặng im như pho tượng. Chiếc áo ấm xam xám nhập nhòe trong màn đêm.
Có lẽ mẹ đang nhớ về quê. Ở đó quanh năm dịu mát, những cơn sóng trắng
xóa cứ đập vào bờ như đang kể chuyện, như chở che cho những giồng cát
phù sa. Mẹ thường nói gió ở quê tôi thật mát dịu, thật ngọt lành, chân
chất.
Lần này lên ở với chúng tôi, mẹ cũng không mấy vui. Lúc nào cũng đau
đáu nhớ quê. Buổi sáng cứ nhất định ăn cơm nguội hấp lại với món “kho
quẹt”, lại nằng nặc đòi tắm nước lạnh và gội đầu bằng trái bồ kết mẹ
mang từ quê ra. Nhớ cái ngày ra đón mẹ ở bến xe, vợ chồng tôi phải giật
mình với bao nhiêu dụng cụ mẹ mang theo. Nào là thúng tre, chổi tàu
cau, cây đòn gánh và cả quang gióng. Về đến nhà, mẹ lặng lẽ xếp những
vật dụng mang từ dưới quê lên đặt vào phía trong gầm cầu thang của
nhà tôi. Tôi nhớ như in cách đây gần hai mươi năm khi ba tôi mất, cũng
gióng gánh đó mỗi ngày kẽo kẹt trên vai mẹ đi bán sương sâm sương sa hột
lựu để nuôi mấy anh em tôi ăn học. Có khi tối mịt mẹ tôi mới về đến
nhà. Đôi chân trần đã lội không biết bao nhiêu cây số đường dài đến nỗi
chai sần lên thành từng lớp. Chị Hai tôi thường lấy lưỡi lam gọt đi
những lớp vảy chai sần đó, vừa gọt mà hai mẹ con nước mắt rơi tầm tã.
Ngày nào đi bán về mẹ cũng mua cho các con khi thì vài trái bắp luộc,
lúc thì một mớ khoai lang, khoai mì. Đó là những tháng ngày hạnh phúc
nhất của chúng tôi bên mẹ, nghèo nhưng thật ấm cúng.
Mỗi tối, năm anh em tôi và mẹ ngủ chung một chiếc mùng to tướng vá
víu rất nhiều chỗ đến nỗi chúng tôi gọi đùa là mùng “cái bang”. Mẹ cẩn
thận mắc mùng cứ lo sợ muỗi vào làm chúng tôi không ngủ được. Hôm nào
có đứa bệnh là mẹ nằm cạnh bên nhúng khăn nóng lau trán suốt đêm,
có khi mệt mỏi quá mẹ thiếp đi một lúc rồi lại giật mình thức giấc sờ
trán con. Có lúc tôi tự nghĩ sao đời mẹ vất vả gian nan quá và hình như
mẹ sinh ra đời để chịu đựng và lo toan cho chồng con không phút giây nào
ngơi nghỉ. Những đêm cùng mẹ thức khuya để vò sương sâm kịp phiên chợ
sớm mai, chúng tôi được mẹ kể rất nhiều câu chuyện tôi còn nhớ mãi cho
đến bây giờ. Mẹ kể rất hay dù chưa hề được đi học ngày nào. Có lần đi
làm về sớm tôi thấy mẹ soạn gióng gánh ra rồi cẩn thận lau chúng bằng
chiếc khăn sạch. Mẹ trân trọng nâng niu chúng như một bảo vật thiêng
liêng lắm. Mắt mẹ cứ rưng rức nỗi buồn tiếc nuối một thời đã qua. Hình
như hồn quê tôi cứ phảng phất đâu đây, vẫn nghe rì rào trong gió, có
tiếng ầm ập của con sông rộng, có mùi chan chát mằn mặn của quê hương.
Sáng nay khi thức giấc, tôi đã thấy mẹ thu xếp quần áo cho vào chiếc
giỏ đệm cũ kỹ. Cạnh đó là cây đòn gánh và hai cái gióng, chiếc chổi tàu
cau được buộc cẩn thận gọn gàng. Mẹ quyết định về quê. Tôi đưa mẹ ra
bến xe thị xã. Qua khung của sổ nho nhỏ của chuyến xe đò cũ kỹ, tôi thấy
mắt mẹ thật buồn, trầm tư nghĩ ngợi. Mái tóc bạc phơ lòa xòa trên vầng
trán nhăn nheo cứ bay bay trong gió sớm. Mẹ cố gượng cười nhưng trong
nụ cười đó tôi thấy có gì như giận dỗi như trách hờn nhưng cũng đầy sự
tha thứ cảm thông. Linh tính mách bảo cho tôi một điều mẹ sẽ không còn
đến với vợ chồng tôi nữa, những đứa con đang mất dần hồn quê, đang
thờ ơ và bỏ quên quá khứ.
TRƯƠNG THANH LIÊM | Tạp Chí Văn Hoá Phật Giáo số 149