Chùa Bửu Minh Gia Lai - Mobile
Hồn quê
15/08/2013 20:22 (GMT+7)

 Những đêm mưa bão thì mẹ choàng lên người một chiếc áo lạnh bằng len cũ kỹ máu xám tro, đăm chiêu nhìn về phía trời xa.

Cách đây ba tháng, thấy mẹ cực khổ ở quê, vợ chồng tôi năn nỉ mãi mẹ mới chịu về thị xã sống với con cháu. Ba tôi mất đã hai mươi năm, mẹ vẫn sống thui thủi một mình ở quê nghèo. Lâu lâu mẹ lại đón xe đi thăm từng đứa con với vài đòn bánh tét, vài chục bánh ít nước tro kèm theo mấy nải chuối sáp cho lũ nhỏ.

Đêm nay, mẹ tôi không ngủ. Có một cơn bão đang tràn về khắp thị xã. Gió thổi phần phật kèm theo tiếng rú rít hù hù, hàng cây sao bên đường chao qua chao lại để chống chọi cơn giận dữ của bão giông. Mẹ vẫn ngồi đó lặng im như pho tượng. Chiếc áo ấm xam xám nhập nhòe trong màn đêm. Có lẽ mẹ đang nhớ về quê. Ở đó quanh năm dịu mát, những cơn sóng trắng xóa cứ đập vào bờ như đang kể chuyện, như chở che cho những giồng cát phù sa. Mẹ thường nói gió ở quê tôi thật mát dịu, thật ngọt lành, chân chất.

Lần này lên ở với chúng tôi, mẹ cũng không mấy vui. Lúc nào cũng đau đáu nhớ quê. Buổi sáng cứ nhất định ăn cơm nguội hấp lại với món “kho quẹt”, lại nằng nặc đòi tắm nước lạnh và gội đầu bằng trái bồ kết mẹ mang từ quê ra. Nhớ cái ngày ra đón mẹ ở bến xe, vợ chồng tôi phải giật mình với bao nhiêu  dụng  cụ mẹ mang theo. Nào là thúng  tre, chổi tàu cau, cây đòn gánh và cả quang gióng. Về đến nhà, mẹ lặng lẽ xếp những vật dụng  mang  từ dưới quê lên đặt vào phía trong  gầm cầu thang  của nhà tôi. Tôi nhớ như in cách đây gần hai mươi năm khi ba tôi mất, cũng gióng gánh đó mỗi ngày kẽo kẹt trên vai mẹ đi bán sương sâm sương sa hột lựu để nuôi mấy anh em tôi ăn học. Có khi tối mịt mẹ tôi mới về đến nhà. Đôi chân trần đã lội không biết bao nhiêu cây số đường dài đến nỗi chai sần lên thành từng lớp. Chị Hai tôi thường  lấy lưỡi lam gọt đi những lớp vảy chai sần đó, vừa gọt mà hai mẹ con nước mắt rơi tầm tã. Ngày nào đi bán về mẹ cũng mua cho các con khi thì vài trái bắp luộc, lúc thì một mớ khoai lang, khoai mì. Đó là những tháng ngày hạnh phúc nhất của chúng tôi bên mẹ, nghèo nhưng thật ấm cúng.

Mỗi tối, năm anh em tôi và mẹ ngủ chung một chiếc mùng to tướng vá víu rất nhiều chỗ đến nỗi chúng tôi gọi đùa là mùng “cái bang”. Mẹ cẩn thận mắc mùng cứ lo sợ muỗi vào làm chúng  tôi không ngủ được. Hôm nào có đứa bệnh  là mẹ nằm  cạnh  bên  nhúng  khăn nóng lau trán suốt đêm, có khi mệt mỏi quá mẹ thiếp đi một lúc rồi lại giật mình thức giấc sờ trán con. Có lúc tôi tự nghĩ sao đời mẹ vất vả gian nan quá và hình như mẹ sinh ra đời để chịu đựng và lo toan cho chồng con không phút giây nào ngơi nghỉ. Những đêm cùng mẹ thức khuya để vò sương sâm kịp phiên  chợ sớm mai, chúng  tôi được mẹ kể rất nhiều câu chuyện  tôi còn nhớ mãi cho đến bây giờ. Mẹ kể rất hay dù chưa hề được đi học ngày nào. Có lần đi làm về sớm tôi thấy mẹ soạn gióng gánh ra rồi cẩn thận lau chúng bằng chiếc khăn sạch. Mẹ trân trọng nâng niu chúng như một bảo vật thiêng liêng lắm. Mắt mẹ cứ rưng rức nỗi buồn tiếc nuối một thời đã qua. Hình như hồn quê tôi cứ phảng phất  đâu đây, vẫn nghe  rì rào trong gió, có tiếng ầm ập của con sông rộng, có mùi chan chát mằn mặn của quê hương.

Sáng nay khi thức giấc, tôi đã thấy mẹ thu xếp quần áo cho vào chiếc giỏ đệm cũ kỹ. Cạnh đó là cây đòn gánh  và hai cái gióng, chiếc chổi tàu cau được buộc cẩn thận gọn gàng. Mẹ quyết định về quê. Tôi đưa mẹ ra bến xe thị xã. Qua khung của sổ nho nhỏ của chuyến xe đò cũ kỹ, tôi thấy mắt mẹ thật buồn, trầm tư nghĩ ngợi. Mái tóc bạc phơ lòa xòa trên vầng trán nhăn nheo cứ bay bay trong  gió sớm. Mẹ cố gượng  cười nhưng trong nụ cười đó tôi thấy có gì như giận dỗi như trách hờn nhưng cũng đầy sự tha thứ cảm thông. Linh tính mách bảo cho tôi một điều mẹ sẽ không còn đến với vợ chồng  tôi nữa, những  đứa con đang  mất dần hồn quê, đang thờ ơ và bỏ quên quá khứ.

TRƯƠNG  THANH  LIÊM | Tạp Chí Văn Hoá Phật Giáo số 149

Các tin đã đăng:
Về đầu trang