Trong lúc nhân loại đang ở thời kỳ sơ khai thì chưa biết đến điều đó.
Dần dần chiêm nghiệm mọi vật sinh thành giữa vũ trụ, sự luân chuyển của
mặt trời mặt trăng, bấy giờ người ta mới đoán định, mới thuyết đặt ra có
ngày, có tháng, có năm. Rồi mỗi cuối năm người ta lại nghĩ: Chắc sẽ có
một vị thần nào đó đi chu du khắp cả thế gian, soi xét việc lành việc dữ
của mọi người. Cho đến khi vị thần đi tuần hành thăm sát hết một năm,
qua năm khác truyền cho vị khác. Vì vậy mà múi giờ đầu tiên của năm cũ
và năm mới giáp nhau thì gọi là Giao thừa. Tức một bên vị thần cũ giao
chức vụ lại cho vị thần mới thừa kế, tiếp tục việc tuần du thế gian, xem
xét người làm lành, làm dữ trong thiên hạ.
Đó là một bước tiến, một sự văn minh của con người, chứ khi còn sơ khai
con người không hề biết các điều đó. Rồi người ta thấy năm tháng trôi
qua xoay tròn luân chuyển, liền nghĩ, người ta sanh trong năm tháng như
vậy, nhưng tại sao có người sanh ra đã sướng, họ sung sướng ngay từ
trong bụng mẹ cho đến khai sanh ra và đến lúc chết. Họ là những người
cơm dư ăn, áo dư mặc, đủ mọi quyền thế, đủ xe đủ cộ và luôn cả nhà cửa,
họ mong chi được nấy, muốn chi có nấy. Ngược lại có người sống rất cực
khổ, mà lại khổ từ trong lòng mẹ khổ ra cho đến khi nhắm mắt tắt thở,
cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, cầu mong hết sức mà cũng không bao giờ
thõa mản được. Rồi có người lành mạnh suốt cả đời, cũng có người đau
lên đau xuống suốt cả năm. Lại cũng có người làm gì cũng sáng suốt, công
việc được trôi chảy, mà cũng có người làm gì bị trở ngại nấy, bỏ công
rất nhiều mà kết quả gặt hái thì rất ít, ngược lại, có người bỏ công rất
ít mà kết quả gặt hái rất nhiều, tại sao như thế? Người ta tìm đủ mọi
lý do để giải thích sự sai biệt đó.
Có người nghĩ rằng có lẽ anh đó sanh vào năm đó, tháng đó không tốt, hay
sanh vào ngày đó không lành nên mới suy đoán, mỗi năm có 12 con giáp,
tức thiên can thập nhị chi là Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi,
Thân, Dậu, Tuất Hợi. Thí dụ năm này người sanh năm Tý thì tốt, người
sanh năm Hợi không tốt; người sanh năm Thân tốt người sanh năm Dậu không
tốt, chắc có lẽ vì năm sanh cho nên cuộc đời của anh ta không tốt. Anh
kia nhờ năm sanh tốt cho nên cuộc đời của anh ta ăn nên làm ra.
Nhưng
trải qua một thời gian kinh nghiệm, người ta thấy anh A, B, C, ba anh
cùng sanh năm Tý, nhưng có anh cuộc đời tốt, có anh không tốt. Ba anh
đồng sanh vào năm Hợi tại sao có anh sướng có anh khổ? Họ nghĩ chắc còn
điều gì nữa chứ không phải tại năm sanh! Có lẽ vì không tính tháng. Họ
liền nghĩ tháng sanh không tốt cho nên cuộc đời anh ta không tốt. Nhưng
cũng có ba anh cùng sanh một tháng, sao có anh sướng có anh khổ, có anh
thông minh, có anh ngu dốt? Người ta lại nghĩ chắc tại ngày, chứ không
phải tháng không mà thôi. Vì vậy họ mới tính thêm ngày. Như vậy là coi
năm, coi tháng, phải coi cả ngày nữa. Khi anh ta sanh có đúng ngày tốt
hay không? Hễ sanh ngày tốt thì cuộc đời anh ta tốt, hễ sanh nhằm ngày
xấu thì cuộc đời anh ta không ra gì. Lại cũng có ba anh sanh cùng năm,
cùng tháng, cùng ngày, nhưng có anh lại tốt, có anh lại xấu là vì sao?
Người ta lại đoán chắc còn tính thêm giờ sanh nữa thì mới đúng. Có anh
sanh năm Tý, giờ Tý, tháng Tý nhưng có người ăn nên làm ra, có người
không ra gì. Lại có ba anh cùng sanh năm Hợi, tháng Hợi, ngày Hợi, giờ
Hợi, nhưng tại sao có anh sướng anh khổ, anh thông minh anh ngu dốt?
Chắc có cái gì nữa đây chứ không phải vì năm, vì tháng, vì ngày, vì giờ
họ nghĩ như vậy. Có lẽ còn thêm cái mạng nữa.
Giữa vũ trụ có năm loại là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Anh A sinh năm đó
thuộc mạng Thổ hay thuộc mạng Kim, nếu năm đó thuộc năm Kim mà mạng anh
thuộc mạng Mộc. Vậy thì Kim gặp Mộc là khắc rồi. Thì sắt chặt cây thì
cây phải gãy, chứ cây không chặt sắt được. Như vậy là Kim khắc Mộc. Nếu
Kim sanh Thủy thì tốt hay sanh năm Thổ, Thổ sanh Kim là tốt. Họ liền
nghĩ thêm: Coi năm, coi tháng, coi ngày, coi giờ cộng thêm phải coi mạng
nữa mới đủ. Nhưng rồi cũng ba người đó, sanh cùng năm, cùng tháng, cùng
ngày, cùng giờ, cùng mạng mà cũng có anh sướng, có anh khổ, có anh
thông minh, có anh ngu dốt, chắc còn cái gì nữa đây? À, té ra trên trời
có các vì sao như sao La Hầu, sao Thổ Tú, sao Thủy Diệu, sao Thái Bạch,
sao Thái Dương, sao Vân Hớn, sao Kế Đô, sao Thái Âm và sao Mộc Đức. Anh
ấy có thể bị xoang vào một các vì sao đó như sao La Hầu chẳng hạn, nên
năm nay cuộc đời anh không tốt lắm. Vì sao La Hầu đối với đàn ông là xấu
nhất, sao Kế Đô đối với đàn bà là xấu nhất. Như vậy là còn tính thêm
sao nữa. Đàn ông mà gặp sao La Hầu thì năm đó coi như đại kỵ đại xui.
Còn gặp sao Mộc Đức, sao Thủy Tú thì tốt. Do đó đẻ ra chuyện cúng sao.
Coi ngày, coi tháng, coi năm, coi giờ, coi mạng rồi coi thêm cúng sao
nữa, một mặt nào đó thì có thể nói đó là một bước tiến của con người tạm
gọi là văn minh, chứ trước kia con người còn sơ khai không biết gì cả.
Thậm chí khi sanh không biết ngày nào sanh, chết cũng không biết sống
bao nhiêu năm thì chết. Sanh rồi chết, chết rồi sanh, sanh ra thì nuôi,
chết rồi đem chôn. Đó là tình trạng dân bán khai ngày xưa, nếu chúng ta
hỏi họ bao nhiêu tuổi, họ cũng lắc đầu. Sanh năm nào, học cũng chả biết.
Đó là khi còn bán khai họ chưa tiến bộ, nhưng bây giờ tiến bộ rồi, nên
khi sanh ra người ta lại coi năm, coi tháng, coi ngày, coi giờ, coi
mạng, coi sao đủ thứ. Đó cũng là một bước tiến bộ nhưng xem ra quá phức
tạp. Tuy vậy cũng có người sanh ra cùng năm, cùng tháng, cùng ngày, cùng
giờ, cùng mạng, cùng sao mà cũng có người sướng người khổ là vì sao?
Khi đó người ta nghĩ chắc có ông Trời nữa.
Ông Trời là một vị thiêng liêng, cao cả ở trên đầu chúng ta, ông định
đoạt cuộc đời của mọi người sướng hay khổ. Ví dụ, ông định cho cuộc đời
của ông A sướng thì ông A được sướng, ông định đoạt cuộc đời của ông B
khổ thì ông B phải khổ. Chứ sao cung coi rồi, ngày tháng cũng coi rồi,
giờ cũng coi rồi...mà tại sao cuộc đời nó khác nhau như vậy. Có lẽ tại
vì ông Trời. Ông định đoạt như thế nào thì phải chịu như thế ấy. Như một
nhà thơ Việt Nam có câu:
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao,
Do đó mới đẻ ra lòng tin.
Đầu năm người thì đi cúng sao, vì tin theo sao. Người thì tin theo ngày
tháng lại đi coi ngày tháng, người tin ông trời cao cả thì theo ông trời
cao cả, mỗi người đi theo mỗi hướng, nhưng chả nơi nào đúng hết, bởi vì
ông trời cao cả định đoạt tất cả cuộc đời con người, nhưng người ta lại
nghi ngờ ông trời, vì ông định đoạt một cách thiên vị. Ví như cho ông A
sướng còn ông B khổ, như vậy là ông trời không công bằng. Đã là ông
trời cao cả sao lại bất công như vậy. Bất công như vậy sao gọi là cao
cả, cho nên cũng không đúng. Thế thì tại sao cũng là con người lại có sự
sai khác đó? Mà thật sự có ngày tốt, giờ tốt, năm tốt, tháng tốt hay
không? Đức Phật dạy: Ngày nào cũng là ngày tốt, giờ nào cũng là giờ tốt.
Nếu người ta hướng đến điều thiện, hướng đến lẽ phải. Tất cả các điều
vừa nói đó chỉ vì người ta quên mình đi, hướng theo bên ngoài, nhìn theo
sự vật để định đoạt cái thân phận của mình. Mà chính tâm của mình mới
là lớn lao, mới là bao quát nhất, là chính yếu định đoạt tất cả mọi vấn
đề, tất cả cuộc sống của mình. Lẽ tất nhiên tâm mình đây không phải là
tâm trong hiện tại mà kể cả cái tâm quá khứ nữa, cho nên cuộc đời của
mình có sự sai khác. Dầu trong hiện tại, tâm anh tâm tôi cũng đụng như
nhau, làm việc thiện cũng giống nhau, nhưng tâm quá khứ của anh khác,
tâm quá khứ của tôi khác, cho nên anh sống trong một hoàn cảnh khác, tôi
sống trong một hoàn cảnh khác. Như vậy cái tâm quá khứ của mỗi người có
sự sai khác là vậy. Khi biết rõ nguồn gốc của sự sai khác giữa người
này và người khác, qua sự giàu nghèo, ngu dốt, sanh hèn, bệnh tật, sống
lâu hay chết yểu. Chính do cái tâm của mình làm chủ mà sinh ra các điều
đó. Cái tâm ấy không phải chỉ là tâm hiện tại mà luôn cả cái tâm trong
quá khứ nữa.
Ngày hôm nay cùng đi học thi, trò nào cũng siêng năng chăm chỉ hết, học
suốt cả ngày từ 10 đến 15 tiếng đồng hồ, nhưng đi thi có người đậu người
hỏng, thì sao? Vì hiện tại đều siêng năng, nhưng ngày trước thì người
siêng kẻ nhác. Anh chỉ siêng năng mới ngày nay thôi chứ còn ngày trước
anh biếng nhác, chỉ biết thu sách vở trong bụi để đi chơi, nên có anh
thi đậu, có anh thi hỏng, mặc dầu hôm nay hai người cùng siêng như nhau,
nhưng ngày trước lại quá nhác nên hôm nay đi thi bị hỏng.
Vì vậy ngày xưa có vị thiền sư nói rằng:
Xuân hữu bách hoa thu hữu nguyệt
Hà hữu lương phong đông hữu tuyết
Nhược vô nhàn sự quái tậm đầu
Nhất thế thời trung giai hảo tiết
Nghĩa là:
Mùa xuân có trăm hoa mùa đông có tuyết,
Mùa hạ có gió mát, mùa thu có trăng sáng.
Nếu không có sự quanh co vướng mắc trong lòng,
Thì tất cả thời nào cũng tốt hết.
Nên khi cái tâm của chúng ta còn những điều rắc rối, quanh co, uẩn khúc,
vướng mắc trong lòng, thì dầu có coi ngày, coi tháng, coi năm, coi giờ,
coi sao, chi gì gì đi nữa, ta cũng ở trong cái vòng luẩn quẩn đau khổ,
không có tự tại an vui được. Cho nên đi coi về mà tâm vẫn không yên. Coi
ngày coi tháng về mà tâm vẫn rối, vì sao? Vì tâm ta còn khúc mắc, quanh
co, đang vướng bận trong lòng, đó là điều chính yếu. Vì vậy, khi nào
trong tâm tư của ta mở toang ra được những điều khúc mắc quanh co, không
vướng những điều đó nữa, thì giờ nào cũng là giờ tốt hết. Như vị Thiền
sư đã nói: Mùa xuân có trăm hoa, mùa đông có tuyết, mùa hạ có gió mát,
mùa thu có trăng sáng. Như vậy thì trăm hoa mùa xuân nào có riêng của ai
đâu! Gió mát mùa hạ nào có riêng của ai đâu, trăng sáng mùa thu nào có
riêng của ai đâu, tuyết rơi mùa đông nào có riêng cho ai đâu, không
riêng của ai hết. Như vậy, nếu như biết thưởng thức trăm hoa mùa xuân,
trăng sáng mùa thu, gió mát mùa hạ, tuyết rơi mùa đông với một tâm thảnh
thơi, không có điều gì khúc mắc, thì giờ nào cũng tốt, thời nào cũng
đẹp cả.
Các vị thiền sư sống trong niệm đó nên không vướng mắc, do đó không đi
coi ngày, không đi coi bói, không đi coi giờ, không đi cúng sao, không
đi giải hạn. Các Ngài chỉ lo niệm kinh, tỉnh giác, lạy Phật sám hối để
trau giồi tâm tánh của mình thật an tịnh, sáng suốt, hiền lành, tâm được
tự tại thì bất cứ ngồi đâu, đi đâu, ở đâu cũng đều tự tại, lúc nào
miệng cũng nở nụ cười tươi tỉnh.
Theo thế tục đầu năm chúng ta vẫn làm lễ Giao thừa, nhưng cũng không quên chúng ta còn làm lễ kỷ niệm đức Di Lặc nữa.
Thường thường đức Di Lặc có hình dáng bụng thì to, miệng thì mỉm cười
hoan hỷ bao dung. Nhưng cái bụng to này là to rất đẹp, chứ không phải to
dễ ghét. Miệng Ngài cười là nụ cười giải thoát chứ không phải cười ngạo
nghễ, cũng không phải cười khoái chí. Thế gian, có người ghét ai thì
lại cười cho khoái chí để trả thù. Trái lại, nụ cười đức Di Lặc không
dính chi đến mấy nụ cười đó hết. Nụ cười của Ngài là nụ cười siêu thoát
vượt lên trên tất cả các nụ cười của thế gian. Vì thế mà có người tả nụ
cười của Ngài bằng hai câu thơ như thế này.
Đại đổ năng dung dung thế gian nan dung chi sự.
Từ nhan vi tiếu tiếu thiên hạ khả tiếu chi nhơn.
Nghĩa là:
Cái bụng lớn có thể dung chứa, dung chứa những việc khó dung chứa của thế gian.
Nét mặt từ bi mỉm cười, cười những người đáng cười trong thiên hạ.
Đại đổ năng dung dung thế gian nan dung chi sự. Cái bụng lớn hay dung.
Bụng lớn đây không phải vì ăn nhiều mà to bụng, kêu bụng lớn. Bụng lớn
này là một sự tiêu biểu, chỉ cho cái tâm rộng rãi bao tất cả. Vậy nó
dung cái gì? Dung những điều mà người thế gian không dung được.
Thí dụ đầu năm mới ra đường gặp một người nào đó đi ngang trước mặt
mình, họ vứt bỏ đồ nhớp trúng mình. Như vậy là mất hên nên không dung
được. Đầu năm mở hàng gặp một người mua hàng cứ trả cù nhằn cù nhằn, trả
tới trả lui, chê đắt chê xấu không mua, thì không dung được. Đối với
Đức Di Lặc thì chuyện đó quá thường, Ngài dung hết. Vì cái bụng năng
dung của Ngài là bụng có tâm lượng bao dung, khoan dung, nên mới ở với
chúng sanh được.
Trong một gia đình, vợ chồng, con cái, anh em có thể đụng chạm nhau hằng
ngày, hằng giờ so đo từng ly, từng tí là vì họ không có một tâm niệm
bao dung nên không thể sống chung với nhau được. Ngay trong bà con cũng
không thể sống chung với nhau, huống chi là thiên hạ là người xa lạ. Cho
nên sự bao dung đó là một điều hết sức thiết yếu để tạo lấy niềm an vui
hạnh phúc. Mà Đức Di Lặc là tiêu biểu cho tấm lòng bao dung đó.
Từ nhan vi tiếu, tiếu thiên hạ khả tiếu chi nhơn. Miệng mỉm cười, cười
những điều đáng cười trong thiên hạ. Xì ke ma túy mà ðụng vào thì coi
như tan gia bại sản, táng thân thiệt mạng. Thế nhưng có nhiều người vẫn
cứ đụng như thường. Nếu nói đáng cười thì cũng đáng cười thật. Rượu chè
cờ bạc ăn chơi xả láng thì cũng có ngày tan gia bại sản, cũng táng thân
thiệt mạng. Nhưng vẫn có người cứ đụng như thường. Điều đó cũng đáng
cười thật, nhưng mà thế gian không cười, cứ nhào vô mà nhắm mắt đụng vô
thôi, nên từ nhan vi tiếu. Tiếu là cười, cười đây là cười cái vô minh
của chúng sanh. Chúng sanh vô minh không tỉnh ngộ, không làm chủ bản
thân của mình. Đó cũng là điều đáng cười.
Ngày xưa bên Trung Hoa có một vị Hòa Thượng tên là Trường Đính. Sáng
tụng kinh xong, ngài vác một cái đãy vải rất lớn đi ra ngoài chợ, hoặc
đến chỗ nọ chỗ kia để xin đồ đạc. Ai cho gì ngài cũng bỏ vào đãy vải đó
hết. Cho cá ngài lấy cá, cho thịt ngài lấy thịt, cho tôm ngài lấy tôm,
cho gạo ngài lấy gạo, cho cơm ngài lấy cơm, cho bánh ngài lấy bánh...Ai
cho gì ngài cũng nhận hết. Khi đã đầy đãy rồi ngài vác tới nơi gốc cây
nào đó, rồi qui tụ các em bé, những người ăn xin, những người thất cơ lỡ
vận, các cháu mồ côi...lại để phân phát đồ đã xin được cho họ, rồi nói
chuyện đạo lý phải trái cho họ nghe, giảng đạo cho họ hiểu. Cho hết đãy
đó rồi ngài lại đi xin tiếp, hễ đầy đãy thì lại tìm một chỗ khác để phân
phát cho họ. Hết ngày ngài trở về chùa, tối tụng kinh, tham thiền, niệm
Phật. Sáng mai thức dậy tụng kinh xong thì ngài cũng vác đãy đi xin như
thế để cho những người đáng cho. Vì ngày nào ngài cũng mang một đãy vải
lớn như vậy nên người ta không biết ngài tên gì và đã đặt cho ngài cái
tên là Bố Đại Hòa thượng (ông Hòa thượng mang cái đãy vải to lớn).
Cho đến khi ngài tịch, người ta đến để đưa tang ngài, lạ thay họ thấy nơi bàn của ngài để lại 4 câu thơ:
Di Lặc chơn Di Lặc,
Hóa thân thiên bách ức,
Thời thời thị thời nhơn,
Thời nhơn thường bất thức.
Nghĩa là:
Di Lặc chính ta đây,
Hóa thân trăm ngàn ức,
Thường thường hiện (ra) người thường,
Người thường không biết được (Ta).
Bấy giờ mới biết đó là hóa thân của đức Di Lặc. Người sau mới tạc theo
cái tượng của ông Bố Đại đó gọi là tượng Di Lặc, mà đa số các chùa đều
thờ.
Đức Di Lặc là một vị đệ tử trong Pháp hội của đức Thích Ca. Trong Pháp
hội này Ngài có tên là Lô, người nhỏ nhất trong chúng. Một hôm, đức
Thích Ca muốn khai thị cho đại chúng biết đức Di Lặc tương lai là vị
quan trọng như thế nào để đại chúng biết. Và Ngài liền quăng cái bát lên
trên hư không rồi bảo các vị Tỳ kheo đi tìm cái bát về. Nhưng không có
vị Tỳ kheo nào tìm bình bát về được hết. Khi đó đức Di Lặc là vị Tỳ kheo
nhỏ nhất trong chúng ngồi dưới hàng chót, đưa tay xin đi lấy. Đức Phật
chấp nhận. Ngài đã lấy cái bình bát về được. Nhân đó đức Thích Ca thọ ký
cho đức Di Lặc tương lai tác Phật (ngày sau làm Phật thay thế đức Thích
Ca).
Từ sự thọ ký đó cho đến cái hiện thân làm Bố Đại Hòa thượng với thân
hình rất to, miệng cười hoan hỷ mà các chùa tạc để thờ là cái hóa thân
của đức Di Lặc Bồ tát. Đức Di Lặc Bồ tát hiện tại đang ở cõi trời Đâu
Suất, tương lai sẽ giáng sanh cõi Ta bà thế giới để kế vị đức Thích Ca
làm giáo chủ cõi Ta bà thuyết pháp độ sinh.
Nơi tượng đức Di Lặc, ta thường thấy có 5 đứa trẻ con bu xung quanh Ngài
là có ý nghĩa gì? Năm đứa trẻ con đó là tiêu biểu cho ngũ thức (nhãn,
nhĩ, tỉ, thiệt, thân). Bởi đức Di Lặc có một kiếp Ngài chuyên tu về Duy
thức quán, tức quán các thức: Nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức,
thân thức, ý thức, mạt-na thức và a-lại-da-thức. Mà năm cái thức hiện ra
bên ngoài bằng mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân cảm xúc.
Thường thường con người hay sống với năm cái cảm xúc bên ngoài đó. Nhưng
con mắt tiếp xúc có khi lành khi dữ, lỗ tai tiếp xúc có khi lành khi
dữ. Người mà có tâm bất chính, tham lam thì con mắt nhìn cái gì cũng láo
liên, muốn nó thuộc về mình. Người có tâm sân giận khi tiếp xúc với bên
ngoài, hễ ghét ai thì con mắt trợn trừng dễ sợ lắm. Trái lại đức Di Lặc
đã điều khiển được ngũ thức nên không còn mang cái tướng tham lam, sân
hận, ích kỷ nên đã trở thành ngũ thức hiện lượng mà trên tượng đức Di
Lặc đã biểu trưng cho 5 đưa trẻ ngây ngô hồn nhiên, tượng trưng cho ngũ
thức đã được hàng phục rồi. Còn chúng ta, con mắt chưa chế phục được cho
nên có cái gì gợi lòng tham thì nhìn ngay, điều gì đáng ghét thì con
mắt lại nhìn chỗ khác; nghe tiếng gì đáng ưa thì lỗ tai chú ý, tiếng gì
đáng ghét thì lỗ tai quặp xuống. Cho nên nhiều người nói: Nhìn thấy con
mắt mà biết anh ấy có cái tâm thật hay không thật, nhìn đôi mắt anh ấy
mà biết anh ấy hiền lành hay ác độc. Lý do đơn giản, sở dĩ con mắt chưa
hiền lành được là vì con mắt đó còn có tâm tham, sân, si, mạn, nghi,
phiền não, cho nên con mắt nó phải làm theo sự điều khiển của tâm.
Đức Di Lặc đã điều khiển được tâm cho nên nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân ở
nơi Ngài trở thành thanh tịnh, trở thành hiện lượng, trở thành trực
giác, trung thực không có ô nhiễm, không có phiền não, tiêu biểu cho 5
đứa con nít ở nơi Ngài: Ngây ngô rất dễ thương. Vậy thì bây giờ chúng ta
phải luyện tập để cho lỗ tai, con mắt khi người khác nhìn vào cho dễ
thương như 5 đứa con nít đó. Muốn được như thế chúng ta phải tu tập và
hi vọng một ngày không xa chúng ta cũng sẽ có 5 em bé dễ thương ấy leo
trên bụng, trên lưng, trên vai, trên cổ của chúng ta.
Đức Di Lặc đã điều phục được tâm không còn tham, sân, si. Ngũ thức tiêu
biểu cho 5 đứa con nít dễ thương đó là nhãn, nhỉ, ti, thiệt, thân. Ngài
đã dứt trừ hết tham, sân, si... cho nên được miệng cười hoan hỉ. Nếu tâm
còn tham thì khó hoan hỉ lắm.
Muốn được hoan hỉ như vậy thì phải tu hành, điều khiển chế phục được
lòng tham, lòng sân, lòng si, ngã mạn, cống cao, ích kỷ của mình. Khi
tâm càng vô ngã, không chấp ngã chừng nào thì bấy giờ phiền não mới tiêu
tan, hoan hỉ mới bộc lộ ra chừng đó. Khi ấy chúng ta mới gần gũi được
hạnh hoan hỉ của đức Di Lặc và mới sống được trong cái đời sống hoan hỉ
của đức Di Lặc.
Đầu năm bấy nhiêu lời tôi xin chúc tất cả các Phật tử được sống một năm hoan hỉ theo hạnh của đức Di Lặc.
HT.Thích Thiện Siêu