Nguồn
gốc của Lễ Tắm Phật xuất phát từ sự kiện Đản sanh của Thái tử
Tất-đạt-đa tại vườn Lâm-tỳ-ni. Các bản kinh thuộc hai truyền thống Nam
và Bắc truyền đều ghi lại rằng, khi hoàng hậu Ma-da đản sanh thái tử, từ
trên không trung có hai dòng nước của chư thiên, một ấm một mát, rưới
xuống để tắm cho hoàng hậu và thái tử. sự kiện này được ghi lại trong
kinh Đại bổn (Trường Bộ II), kinh Hy hữu vị tằng hữu pháp (Trung Bộ III), lời mở đầu của bản chú giải truyện Bổn Sanh (Nidānakatha)[1]. Theo bộ Đại sự (Mahāvastu), khi thái tử ra đời, hai dòng nước ấm và lạnh thơm dịu, trong lành từ trên không trung rưới xuống để tắm cho Thái tử[2]. Tác phẩm Phật sở hành tán của ngài Mã Minh cũng ghi lại như trên[3].
Lễ Tắm Phật
Riêng kinh Phổ diệu thì ghi lại rằng lúc ấy từ trên hư không có chín con rồng phun nước xuống để tắm cho thái tử[4].
Căn cứ vào các tác phẩm này, các nghệ nhân Phật giáo đã mô tả lại cảnh
Đản sanh của thái tử với rồng phun nước trong nhiều tác phẩm điêu khắc
tại Lộc Uyển phía Bắc Ấn và Amarāvatī tại Nam Ấn. Một tác phẩm thuộc
trường phái Gandhara được lưu giữ tại bảo tàng Peshawar (Pakistan) mô tả
cảnh hai cung nữ đứng hầu bên thái tử, bên trên có trời Đế Thích và
Phạm Thiên rưới nước từ cành hoa sen để tắm cho thái tử, hai bên thái tử
lại có bốn vị chư thiên đang cung kính chiêm ngưỡng.
Theo kinh Quá khứ hiện tại nhân quả,
khi thái tử ra đời có bốn vị Thiên vương dùng vải quý cõi trời nâng
thái tử, Thích Đề Hoàn Nhơn mang lọng báu cùng Đại Phạm Thiên đứng hầu
hai bên. Lúc đó có hai vị Long vương là Nan-đà và Ưu-ba-nan-đà từ trên
hư không phun hai dòng nước ấm và mát để tắm thân Thái tử[5].
Có lẽ chính sự cung kính của chư thiên đối với sự kiện Đản sanh của
thái tử được mô tả trong bản kinh này đã tạo nguồn cảm hứng để về sau
trong mùa Phật đản, người Phật tử thường tôn trí tượng Đản sanh trong
một bồn hay thau sạch và quý, đặt trong điện thờ Phật hay một nơi nào đó
trang nghiêm, dùng nước sạch có ướp các loài hoa thơm để làm lễ tắm
Phật nhằm tưởng nhớ đến ân đức của Đức Phật và bày tỏ niềm tôn kính sâu
xa đối với Ngài.
Tuy
chưa thể xác định được thời điểm cụ thể của sự xuất hiện Lễ Tắm Phật
tại Ấn Độ, nhưng điều chắc chắn là lễ nghi này vốn phát xuất từ Ấn Độ
trước khi được lưu truyền đến các quốc gia Phật giáo khác. Kinh Đại bảo tích
có ghi lại chuyện công chúa Vimaladattā, con gái của vua Ba-tư-nặc ở
thành Xá-vệ cùng với năm trăm Bà-la-môn ra khỏi thành, mang theo những
lọ đựng đầy nước để dự lễ tắm tượng của một vị trời. Đoàn người vừa ra
khỏi cổng thành thì gặp một số vị Tỳ-kheo. Các Bà-la-môn này cho rằng
việc gặp đoàn Tỳ-kheo như thế là điềm chẳng lành nên bàn nhau quay về.
Nhưng khi ấy công chúa Vimaladattā bằng cung cách từ ái và trí tuệ sắc
sảo của mình đã giải thích cho các Bà-la-môn, khiến họ khởi tâm kính tín
đối với Phật pháp. Câu chuyện này cho thấy sự tương hệ nào đó giữa Lễ
Tắm Phật trong Phật giáo và lễ tắm tượng các vị thần trong Bà-la-môn
giáo. Từ xa xưa, tín đồ Ấn giáo xem sông Hằng như một vị nữ thần linh
thiêng và rằng nước của con sông này có khả năng rửa sạch tội lỗi cho
những ai có nhân duyên được tắm và cầu nguyện ngay trong dòng sông ấy.
Nhưng trong kinh Tự thuyết (Udāna), Đức Phật đã khẳng định rằng
không có nước của sông nào có thể rửa sạch được tội lỗi và làm cho con
người ta được thanh tịnh, dù đó là sông Hằng hay sông Già-da, mà chính
sự thực hành pháp chân chính mới giúp cho con người được tịnh hóa.
Tác phẩm Nam hải ký qui nội pháp truyện
của ngài Nghĩa Tịnh (635-713), người đã rời Trung Hoa vào năm 671 và
sau đó tu học tại Ấn Độ trong khoảng thời gian mười năm, là một trong
những sử liệu quý ghi lại chi tiết về những sinh hoạt tự viện và các qui
chế của Tăng đoàn Phật giáo đương thời tại Ấn Độ. Quyển thứ tư của tác
phẩm này có thuật lại cách thức tắm rửa các tôn tượng trong những tu
viện Phật giáo như sau: “Tại các tu viện ở những nước phía Tây (Ấn
Độ và Trung Á), vào buổi sáng diễn ra lễ tắm các tôn tượng, vị Thọ Sự
(Karmadāna - vị sư phụ trách) gióng kiền trùy, cho giăng lọng báu quanh
sân chùa, sắp những bình nước thơm thành hàng dọc theo điện Phật, sau đó
đặt tôn tượng bằng vàng hoặc bạc, đồng hay đá vào bồn bằng vàng hoặc
đồng, đá, hay gỗ. Trong khi các thiếu nữ tấu nhạc cúng dường, các vị sư
đem dầu thơm (làm từ chiên đàn, trầm hương) bôi khắp tượng rồi dùng nước
thơm rưới tắm tôn tượng. Sau khi tắm rửa tượng xong, các vị sư lấy vải
trắng sạch lau khô tượng rồi đem an trí lại trong điện Phật, dùng nhiều
loại hoa trang hoàng quanh tượng. Nghi thức này do chúng Tăng trong chùa
thực hiện theo sự hướng dẫn của vị Thọ sự. Tại các liêu phòng trong tu
viện, mỗi ngày chư Tăng theo cách thức trên mà tắm rửa cẩn trọng những
tôn tượng trong phòng mình[6]… đối với
những tượng đồng, dù là nhỏ hay lớn, đều lấy tro mịn hay bột gạch để lau
cho bóng, dùng nước sạch để tắm rửa cho đến khi tượng đẹp và trong như
gương. Đối với tượng lớn, đại chúng trong tu viện cùng nhau lau tắm
tượng trong mỗi nửa tháng hay mỗi tháng; còn với tượng nhỏ, nếu có thể,
thì mỗi vị lau tắm mỗi ngày. Làm được như thế thì ít hoang phí, mà lại
nhiều phước đức. Nếu lấy hai ngón tay thấm vào nước vừa được dùng để tắm
tượng mà nhỏ lên đầu, thì đó gọi là nước cát tường. ”[7]
Tại Trung Hoa, sách Ngô thư
là một trong những tư liệu đầu tiên nói đến Lễ Tắm Phật vào thời Tam
quốc. Đến TK IV, Thạch Lặc (trị vì 319-333) của nhà Hậu Triệu đã tổ chức
lễ tắm Phật. Phần tiểu sử ngài Phật Đồ Trừng trong Cao tăng truyện
có ghi lại rằng Thạch Lặc thường gởi con mình vào các tu viện nhờ các
nhà sư nuôi dưỡng và dạy dỗ. Mỗi khi đến ngày mồng tám tháng Tư, đích
thân Thạch Lặc đến tu viện dự lễ tắm Phật để cầu phước báu cho con mình[8]. Phật tổ thống kỉ
cũng ghi rằng ngày mồng tám tháng tư năm thứ sáu niên hiệu Đại Minh
(462), vua Hiếu Võ Đế thiết lễ tắm Phật và lễ cúng dường chư Tăng ngay
trong hoàng cung[9]. Như thế, đến thời
Nam Bắc Triều, lễ tắm Phật không những được tổ chức trong các tu viện
Phật giáo mà ngay cả trong hoàng cung. Do ảnh hưởng của sự khác biệt về
quan điểm lịch sử của các tông phái Phật giáo tại Ấn Độ về ngày tháng
Đản sanh của Đức Phật[10] và cũng do
những tác động của xã hội và văn hóa Trung Hoa trong nhiều giai đoạn
khác nhau, nên ngày Lễ Tắm Phật tại quốc gia này được tổ chức vào nhiều
thời điểm trong các thời đại khác nhau. Dưới thời Nam Bắc Triều
(386-577), Lễ Tắm Phật được tổ chức vào ngày mồng tám tháng Tư. Từ đời
nhà Lương (502-557) cho đến đời nhà Liêu (916-1125), lễ này lại được
diễn ra vào ngày mồng tám tháng Hai[11].
Song vào đời nhà Tống (960-1279) lễ được tổ chức vào ngày mồng tám
tháng Chạp tại miền Bắc, nhưng ở miền Nam thì là ngày mồng tám tháng Tư.
Sách Đông kinh mộng hoa lục ghi lại Lễ Tắm Phật vào cuối đời
Tống rằng vào ngày mồng tám tháng Tư, cứ mỗi một trong số mười thiền
viện lớn tại Lạc Dương đều tổ chức Lễ Tắm Phật và cúng dường chư Tăng[12]. Nghi thức Lễ Tắm Phật cũng là một phần quan trọng trong bộ Bách Trượng thanh quy,
được áp dụng trong các thiền viện kể từ thời ngài Bách Trượng
(749-814). Trong các đời nhà Minh, Thanh, Lễ Tắm Phật đều được tổ chức
vào ngày mồng tám tháng Tư. Trong số những bản kinh có ảnh hưởng nhiều
đến cách thức tổ chức và ý nghĩa của Lễ Tắm Phật tại Trung Hoa, thì kinh
Công đức tắm Phật là bản kinh được biết đến nhiều nhất.
Kinh Công đức tắm Phật
(Dục Phật công đức kinh, T16n698) được ngài Nghĩa Tịnh dịch từ nguyên
bản Phạn ngữ sang Hán ngữ vào năm 710. Đây là một bản kinh ngắn và hiện
thời chỉ còn lưu lại trong đại tạng Trung Hoa. Nội dung của bản kinh này
rất giống với kinh Công đức tắm tượng (Phật thuyết dục tượng
công đức kinh, T16n697) do ngài Bảo Tư Duy (Manicintana?) đến từ Ấn Độ
dịch vào năm 705. Riêng bài kệ nói về lý duyên sinh trong kinh lại giống
với bài kệ trong kinh Công đức tạo tháp (Phật thuyết tạo tháp công đức kinh, T16n699) cũng do một nhà sư Ấn Độ, ngài Địa-bà-ha-la (Divākara) dịch vào năm 680.
Lễ Tắm Phật
Kinh Công đức tắm Phật
được mở đầu với hai câu hỏi chính của Bồ-tát Thanh Tịnh Huệ: 1. Do đâu
mà chư Phật thành tựu sắc thân thanh tịnh, đầy đủ tướng tốt? 2. Những
chúng sanh sinh ra đời, gặp Phật và phát tâm cúng dường thì được vô
lượng công đức, còn sau khi đức Phật nhập diệt, chúng sanh nên cúng
dường gì, tạo công đức gì để mau chứng được vô thượng Bồ-đề? Đức Phật
dạy rằng Như Lai thành tựu sắc thân thanh tịnh là do tu tập những diệu
pháp cao thượng như Lục Độ, Tứ Vô Lượng Tâm, các pháp vô uý, trí tuệ…
Nếu đối với các bậc giác ngộ như thế mà dùng tâm thanh tịnh để cúng
dường hương, hoa… hoặc đối trước tôn tượng các Ngài mà trang hoàng,
nghiêm sức, dùng hương quý, nước thơm theo nghi thức mà tắm tôn tượng,
đánh trống thỉnh chuông, xưng tán công đức của Như Lai, lại phát nguyện
thù thắng, hồi hướng chứng đắc trí tuệ vô thượng, thì hành giả sẽ được
vô lượng vô biên công đức. Chư Phật vốn có ba thân là pháp thân, thọ
dụng thân và hóa thân. Vì thế, sau khi Đức Phật nhập diệt, nếu muốn cúng
dường ba thân này thì nên cúng dường xá-lợi. Song xá-lợi lại có hai
loại là thân cốt xá-lợi và pháp tụng xá-lợi. Trong bảy chúng đệ tử Phật,
như ai muốn tạo tượng Phật, nếu không đủ khả năng, dầu tạo một pho
tượng rất nhỏ, một ngôi tháp nhỏ để tôn thờ xá-lợi nhỏ như hạt cải, hoặc
lại có người chỉ chép một bài kệ tụng trong kinh rồi an trí trong tháp
thì cũng giống như đang dâng cúng một viên ngọc báu vào tháp, tùy theo
khả năng mà chí thành cung kính cúng dường như thế thì không khác chi
như đang cúng dường hiện thân của đức Phật. Những ai chí tâm cúng dường
như thế sẽ có được mười lăm công đức thù thắng sau: 1. thường biết tàm
quý; 2. phát khởi niềm tin thanh tịnh; 3. tâm ngay thẳng; 4. được gần
gũi bạn lành; 5; chứng huệ vô lậu; 6. thường gặp chư Phật; 7. luôn hành
trì chánh pháp; 8. làm đúng với lời nói; 9. tuỳ ý sanh vào quốc độ chư
Phật; 10. nếu sanh trong nhân gian thì sanh vào dòng họ tôn quý, được
người khác tôn kính, khởi tâm hoan hỷ; 11. nếu sanh trong nhân gian thì
tự nhiên biết niệm Phật; 12. không bị ma quân gây tổn hại; 13. hay hộ
trì chánh pháp trong thời mạt pháp; 14. được chư Phật trong mười phương
gia hộ; 15. mau thành tựu được năm phần pháp thân. Sau khi giảng dạy như
thế, Đức Phật liền nói kệ trùng tuyên lại nghĩa trên.
Phần
quan trọng thứ hai của bản kinh là lời giải đáp của Đức Phật cho Bồ-tát
Thanh Tịnh Huệ về cách thức tắm tượng Phật trong đời vị lai. Đức Phật
dạy rằng khi tắm tôn tượng nên dùng các loại hương thơm như ngưu đầu
chiên đàn, bạch đàn, tử đàn, trầm hương, uất kim hương, long não, xạ
hương… pha vào nước sạch, đựng trong bình sạch. Chọn một nơi thanh tịnh,
đẹp đẽ thiết lập đàn tràng, hoặc vuông hay tròn, kích thước xứng hợp,
trên đàn đặt một bệ tắm, ở giữa bệ này tôn trí tượng Phật. Khi tắm tượng
thì dùng nước nóng thơm, trong sạch rưới từ trên xuống, sau đó tiếp
dùng nước tinh khiết để tắm lại. Nước dùng để tắm này phải được lọc cho
thật sạch để không làm tổn hại đến các vi trùng. Nếu lấy hai ngón tay
thấm vào nước vừa được dùng để tắm tượng rồi nhỏ lên đầu, thì nước này
được gọi là nước cát tường. Không được giẫm chân lên dòng nước tắm tượng
đang chảy trên đất sạch. Sau khi tắm tượng xong, dùng khăn mềm, mịn và
sạch lau khô tượng, xông các loại hương trầm thơm quanh tượng, rồi đặt
tượng về vị trí cũ trong điện Phật. Đức Phật còn dạy rằng, nhờ việc tắm
tượng như thế, chúng sanh trong hiện đời được nhiều phước báu thù thắng,
sở nguyện thành tựu, quyến thuộc được an ổn, mau thành chánh giác. Sau
khi an trí tượng về chỗ cũ, nên đối trước tượng dâng hương, chắp tay
thành kính tụng bài kệ sau:
“Con nay tắm gội chư Như Lai
Công đức trang nghiêm tịnh trí đầy
Nguyện cho chúng sanh lìa năm trược
Mau chứng Như Lai tịnh pháp thân
Giới, định, tuệ… năm phần hương báu
Tỏa ngạt ngào trong khắp mười phương
Khói hương này xin hằng lan mãi
Phật sự làm vô lượng vô biên
Nguyện khổ nạn ba đường bặt dứt
Nhiệt não trừ, an trú thanh lương
Đồng phát tâm vô thượng Bồ-đề
Thoát biển ái lên bờ đại giác.”[13]
Như
thế nội dung chính của bản kinh trên nói đến công đức của những việc
xây tháp thờ xá-lợi và tạo tượng Phật, cũng như nghi thức tắm Phật.
Ngoài báo thân, Đức Phật còn có hai thân khác là pháp thân và ứng hóa
thân. Do đó, dù Ngài đã thị hiện nhập diệt tại thành Câu-thi-na, nhưng
sự giao cảm của Ngài với chúng sanh trong nhiều đời sau vẫn tiếp diễn
bởi pháp thân Ngài siêu việt cả không gian và thời gian. Đức Phật xuất
hiện trong đời không phải như một vị cứu tinh có đầy đủ uy quyền để ban
ơn hay giáng họa, mà Ngài là một người như bao nhiêu người khác, một
chúng sanh như bao chúng sanh khác. Sau khi thành đạo dưới cội bồ-đề,
Ngài du hóa khắp miền Bắc Ấn với vai trò của một vị thầy tâm linh, rất
bình dị và cũng rất thánh thiện. Trong cương vị của một vị Đạo sư, một
đấng giác ngộ, Ngài đã trao truyền những kinh nghiệm sống, tu tập và sự
thể nghiệm hương vị giải thoát cho hàng đệ tử mình và những ai hữu
duyên. Trong đạo Phật, nhân tố trọng tâm không phải là đức Phật mà là
giáo pháp, đây chính là điểm khác biệt giữa Phật giáo với các truyền
thống tôn giáo khác. Pháp mà Đức Phật đã tuyên thuyết là vô giá, đó là
phương tiện để đưa đến sự thanh tịnh và an lạc viên mãn trong đời sống
tâm linh, mà đức Phật và các bậc thánh Tăng là những minh chứng rõ nét
nhất. Giáo pháp của Đức Phật do vậy cũng có giá trị tương đương với
xá-lợi của Đức Phật. Như trong bản kinh trên đã đề cập, người Phật tử tỏ
lòng tôn kính và niệm ân Đức Phật qua việc xây tháp thờ xá lợi, tạo tôn
tượng để thờ phụng, nhưng sự tôn kính và báo ân như thế sẽ mang ý nghĩa
chân chính và cao thượng hơn nếu họ biết giữ gìn, hành trì và truyền bá
Chánh pháp.
Như
đã trình bày, nghi thức tắm tượng Phật được mô tả trong bản kinh trên
là một trong những nét sinh hoạt tự viện tại Ấn Độ mà ngài Nghĩa Tịnh đã
ghi lại trong ký sự của mình. Cách thức thực hành như thế không phải
chỉ thuần túy là một nghi thức truyền thống đơn thuần mà còn là một pháp
môn tu tập của chư Tăng Ni và người Phật tử. Báo thân của Đức Phật đầy
đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, tâm Ngài thanh tịnh vô
nhiễm và nhu nhuyến, pháp thân Ngài thì bất sanh bất diệt, bất cấu bất
tịnh, cho nên việc tắm Phật là một cơ hội để hành giả thực tập nếp sống
chánh niệm, trau dồi lòng khiêm cung, hướng tâm nhiệt thành đến Đức
Phật, hay nói cách khác, hướng đến sự viên mãn của đức hạnh và trí tuệ.
Những dụng công trên của mỗi người tham dự lễ sẽ là những yếu tố tối
quan trọng để họ tự chuyển, điều phục và thăng hoa tâm thức của mình.
Trong biển sanh tử chập chùng, do vô minh sai sử, nên chúng sanh tạo vô
số oan nghiệp, tâm thức luôn bị vẩn đục bởi những tố chất nhiễm ô của
phiền não, tà kiến. Do vậy, mỗi khi được tắm Phật, tâm họ được lắng đọng
trong niềm tôn kính thanh tịnh. Đó là cơ duyên hy hữu để mỗi người gội
rửa thân tâm, sám hối những lỗi lầm trong bao đời, để từ đây hướng đời
mình đến sự tịnh hóa ba nghiệp, từ bỏ những niềm vui tầm thường, mong
manh thế tục để tìm đến niềm an lạc đích thực của tâm hồn.
Nhưng
điều độc đáo ở đây là trong khung cảnh của buổi lễ thật trang nghiêm,
thanh tịnh đó, trong năng lực thành kính của đại chúng trong pháp hội,
hành giả phát khởi Bồ-đề tâm, đại bi tâm hướng về pháp giới chúng sanh
với một tâm hồn thanh khiết và thành kính. Đây chính là động lực có một
sức mạnh kỳ diệu để giúp hành giả an trú vào chân tâm của mình mà khởi
lên đại nguyện theo gương các bậc hiền nhân. Như thế, từ việc tắm tôn
tượng Phật, hành giả lại có nhân duyên lớn để gội rửa tâm thức của chính
mình, hầu trở về với Phật tánh thanh tịnh đang hiện hữu trong mình. Bàn
về ý nghĩa của việc tắm Phật, ngài Nghĩa Tịnh đã viết rằng: cội gốc của
sự tôn kính, không gì bằng tôn kính Tam bảo, tu tập quán tưởng, không
gì bằng quán tưởng Tứ đế, nhưng chân lý thì uyên áo mà phàm tâm thì
vướng phải nhiều ngoại duyên. Do vậy, nghi thức tắm rửa tôn tượng thật
thiết thực và thích hợp. Dầu Đức Phật đã nhập diệt nhưng hình tượng Ngài
vẫn còn, nên phải đối với tượng khởi tâm kính thành như thể Ngài đang
hiện hữu. Hoặc có người mỗi ngày dùng hương hoa dâng cúng để khởi tâm
thanh tịnh, lại có người siêng năng tắm rửa tượng để tự gội rửa nghiệp
chướng hôn mê, dụng tâm thực hành như thế thì tự thân được lợi ích rất
nhiều, khó mà thấy biết được. Còn như khuyến hóa người khác thực hành
theo thì bản thân cũng được nhiều công đức và lợi ích[14].
Là
một lễ nghi có từ lâu đời và là phần thiết yếu của lễ hội Phật đản, Lễ
Tắm Phật xuất hiện rất phổ biến trong các nước Phật giáo Nam truyền và
Bắc truyền. Riêng tại Việt Nam, lễ nghi này thường được tổ chức vào các
ngày khác nhau, nhưng phổ biến nhất là ngày mồng tám tháng Tư, trong dịp
Lễ Phật đản mỗi năm. Đại Việt sử ký toàn thư và Đại Việt sử lược đều ghi lại rằng vào ngày mồng tám tháng Tư năm Nhâm Tý (1072), vua Lý Nhân Tông đã dự xem Lễ Tắm Phật [15]. Cũng theo Đại Việt sử ký toàn thư,
cứ mỗi tháng vào các ngày rằm, mồng một, và đặc biệt ngày mồng tám
tháng Tư, nhà vua thường đến chùa Diên Hựu để làm lễ cầu phúc, thiết
nghi tắm Phật[16]. Văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh cũng nói đến việc
nhà vua tổ chức lễ cầu an và thiết nghi tắm Phật vào các ngày mồng một
và vào mùa xuân. Như thế, đủ để thấy dưới triều Lý, đặc biệt là dưới
thời vua Lý Nhân Tông, ngoài lễ Phật đản, lễ tắm Phật cũng được phổ biến
trong các sinh hoạt của Phật giáo. Lễ Phật đản cũng như lễ tắm Phật
ngay từ thời Lý không chỉ đơn thuần là một nghi lễ của cộng đồng Phật
giáo mà nó đã trở thành những sinh hoạt văn hóa chung trong dân gian.
Điều này được ghi lại trong Lĩnh Nam trích quái như sau:
“Ngày mồng tám tháng Tư, Man nương tự nhiên mà thác sinh lên trời, linh
xác gói chôn trong chùa. Nhân dân lấy đó làm ngày sinh của Phật. Hàng
năm cứ đến ngày này trai gái, già trẻ bốn phương tụ tập về chùa để vui
chơi, ca múa các trò đàn địch mãi thành tục lệ, gọi là “hội tắm Phật”,
đến nay lệ vẫn còn.”[17] Sự dung
hòa giữa văn hóa Phật giáo nói chung và Lễ Tắm Phật nói riêng trong xã
hội Việt Nam thời xưa đã được Lê Tắc ghi lại trong mục “Phong tục”, phần
nói về phong tục dân gian của xã hội An Nam trong tác phẩm An Nam chí lược như sau: “Mồng
tám tháng Tư, mài trầm hương và bạch-đàn-hương, dầm nước tắm rửa tượng
Phật và dùng thứ bánh giầy mà cúng Phật. Tiết Đoan-Dương (mồng năm tháng
năm), làm cái nhà gác ở giữa sông, vua ngồi coi đua thuyền. Ngày
Trung-Nguyên, lập hội Vu-Lan-Bồn, để cúng tế, siêu độ cho người chết,
tốn hao bao nhiêu cũng không tiếc.”[18]
Tác phẩm này cho thấy một điều hết sức độc đáo là ngay từ thời Lý-Trần,
việc dùng các loại hương thơm dầm nước để tắm tượng Phật, đúng như cách
thức được mô tả trong kinh Công đức tắm Phật như trên đã được
thực hiện phổ biến trong dân gian. Điều đó cũng đủ cho thấy sự phổ biến
của nghi thức này trong các sinh hoạt văn hóa bản xứ.
Trải
dài theo dòng lịch sử dân tộc, ngày Lễ Phật đản cùng nghi thức Tắm Phật
đã trở thành một nét sinh hoạt tâm linh cao đẹp trong xã hội Việt Nam.
Đối với người Phật tử, sự tôn kính, lòng nhiệt thành đối với Đức Phật
trên nền tảng của chánh kiến mới thực sự mang lại cho họ một niềm tin
trong sáng và sự an lạc đích thực, lâu dài. Mỗi khi dâng một nén hương,
một đóa hoa, một phẩm vật lên Đức Phật, hay khi rưới những dòng nước
tinh khiết lên tôn tượng của Ngài, đó chính là nhân duyên thù thắng để
mỗi người quay về với chính mình, hầu tự sách tấn, tự trang nghiêm cho
bản thân bằng hương đức hạnh, bằng hoa trí tuệ, và bằng nước nhẫn nhục,
từ ái, tùy thuận thích ứng với mọi nhân duyên, ngay cả chướng duyên để
hướng đến một nếp sống hướng thượng, tỉnh giác. Phải chăng chính những
lúc đó, mỗi người đang tự tắm Phật trong từng sát-na của đời mình?
Thích Đồng Thành (Pháp Luân)
[1].
H. Nakamura, Gotama Buddha, Tokyo: Kosei Publishing, 2000, p. 66. [2].
S. Khosla, The Historical Evolution of the Buddha Legend, New Delhi:
Intellectual, p. 17. [3]. Sđd. [4]. T3n186, tr. 494a. Theo Thích Ca phổ,
chi tiết về chín con rồng này được ghi lại trong Đại thiện quyền kinh,
T50n2040, tr. 5b. [5]. T3n189, tr.625a. [6]. T54n2125, tr.226b. [7].
Sđd. [8]. Cao tăng truyện, T50n2059, tr.384c. [9]. T49n2035, tr. 346a.
[10]. Những quan điểm dị biệt này đã được ngài Huyền Trang ghi lại trong
Đại đường tây vức ký, TT51n2087, tr.916b. [11]. Tục cao tăng truyện,
T50n2060, tr.616a. [12]. K. Chen, The Chinese Transformation of
Buddhism, Princeton: Princeton University Press, 1973, tr.265-266. [13].
T16n698, tr. 800b-c. [14]. T54n2125, tr. 226b. [15]. Đại Việt sử ký
toàn thư, Hà Nội: Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam, (bản điện tử: Viện Việt
Học, Westminster, 2001), tr. 109. Đại Việt sử lược, TP.HCM: NXBTPHCM,
(bản điện tử: Viện Việt Học, Westminster, 2001), tr. 53. [16]. Đại Việt
sử ký toàn thư, tr. 115. [17]. Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam
tập 1, Huế: Nxb Thuận Hóa, 1999, tr. 144. [18]. An Nam chí lược, Huế:
Viện Đại học Huế, (bản điện tử: Viện Việt Học, Westminster, 2001), tr.
16