Nếu như người Nhật tự hào về bonsai thì người Việt Nam tự hào về
chơi hoa. Nhưng đáng tiếc có một số loài hoa quý như thủy tiên, hoa
quỳnh, thường được giới thượng lưu ngày xưa xếp vào loại hoa đón Tết cao
cấp, xem hoa nở để đoán vận may, thì đến nay hầu như không còn mấy ai
biết đến trong ngày Tết. Thời gian thay đổi thì các thú vui ngày Tết
cũng có những đổi thay, song truyền thống hoa Tết đại chúng ở Việt Nam
ngày nay còn có thêm nhiều loại như hoa lan, hoa cúc, hoa tulíp… được
phát triển từ trong nước và du nhập từ nước ngoài vào.
2. Tiễn ông Công công Táo lên trời
Tương truyền ở mỗi gia đình kể từ khi loài người biết dùng lửa để
ăn chín đến nay luôn luôn trong nhà có ông Công ông Táo. Ông Công được
xem là thần đất giữ nhà và biểu tượng của ông là cây nêu ngày Tết. Nay,
phong tục trồng cây nêu đã bị mai một vì có nhiều người ở nhà tầng nên
không có đất. Còn ông Táo được dân gian gọi là “ông vua bếp”. Vua bếp là
vị thần cai quản việc nấu ăn trong mỗi gia đình gắn với câu ngạn ngữ
“có thực mới vực được đạo”. Một cỗ bếp có ba ông vua bếp được nắn bằng
đất thó (đất sét) có hình chóp cụt uốn cong cúi đầu vào nhau tạo thành
thế “kiềng ba chân”.
Việc tiễn đưa ông Táo về trời là một phong tục đẹp với ý nghĩa
tâm linh. Không tiễn ông Táo về trời là có gì đó khuất tất đối với trời
nên sợ không dám làm lễ. Lễ ông Táo về trời bao giờ cũng có việc thả cá
chép làm phương tiện cho ông. Đây cũng là mặt đời sống thiêng liêng của
cư dân sông nước.
3. Đi chợ Tết, xin chữ về thờ
Đi chợ Tết ngày xưa chủ yếu là mua lá dong, mua thịt, mua hành để
về gói bánh chưng. Ngoài ra, người ta không quên qua cổng chợ xin thầy
đồ mấy chữ về thờ vì ngày xưa đa phần không biết chữ nên mới có phong
tục thờ chữ trong nhà để mơ ước con cháu sau này được học hành, làm ăn
phát đạt. Chữ được chọn để thờ thường là chữ Tâm, Phúc, Đức… Phong tục
thờ chữ ngày nay đang được phục hồi bằng thư pháp thể hiện một dân tộc
hiếu học trong lịch sử và hôm nay.
|
Phong tục thờ chữ ngày nay đang được phục hồi bằng thư pháp - Ảnh: Lê Phương
|
4. Gói bánh chưng, bánh tét
Phải là những người có bàn tay khéo léo mới gói được, nếu không
bánh sẽ nứt góc khi luộc. Đây cũng là nét văn hóa cộng đồng cao khi
người này nhờ người kia gói bánh. Luộc bánh chưng là công đoạn được
nhiều người thích nhất. Đêm những ngày gần Tết, trời se lạnh mà ngồi chờ
đợi bên nồi bánh chưng thì còn gì thú bằng.
Bánh chưng là một phong tục có từ nền văn minh lúa nếp (không đơn giản
là lúa nước). Lúa nếp chỉ tìm thấy dấu vết cổ xưa ở đồng bằng sông Hồng
và gắn với câu chuyện bánh chưng, bánh dầy từ thời vua Hùng thứ 18 khi
kén phò mã. Ngày nay bánh chưng bánh tét vẫn là phong tục thưởng thức ẩm
thực Tết vô cùng đẹp của dân tộc ta.
5. Lau dọn nhà
Tất cả đồ vật, chén bát đũa đều được đem ra sửa soạn và trưng
bày. Công việc dọn dẹp ngày Tết có ý nghĩa quan trọng để chuẩn bị “tiễn
năm cũ, đón năm mới”. Cùng công việc dọn dẹp cũng là lúc xem lại xem còn
nợ nần ai cái gì thì phải trả, không để nợ hai năm mà thành “nợ cả
đời”. Đây là phong tục tổng kết các quan hệ để xem nợ thì phải trả trước
Tết, ơn thì phải đem lễ vật đến để đáp ơn, cũng có ý không nợ ơn qua
năm.
6. Đón giao thừa
Giao thừa là lúc chứng kiến trời đất gặp nhau. Khi trời đất gặp nhau sẽ
toát ra một linh khí mà ai lúc đó được chứng kiến sẽ thấy trào dâng cảm
xúc. Đón giao thừa bao giờ cũng cúng ngoài trời, có thể cúng mặn hoặc
cúng hoa quả. Cùng với việc cúng giao thừa này, trên bàn thờ trong nhà
bao giờ cũng có ngũ quả gồm chuối (chuối tiêu), bưởi, bòng, cam quýt. Ở
miền Nam thờ trái theo ngôn ngữ nên thường có ngũ quả gồm mãng cầu
(cầu), dừa (vừa), đu đủ (đủ), xoài (xài), sung (sung túc) hoặc dứa
(thơm); đó là cầu - vừa - đủ - xài - sung hoặc cầu - vừa - đủ - xài -
thơm.
7. Xông đất mồng 1
Xông đất có thể là chọn người từ trước và người được chọn sẽ đến vào
lúc sớm nhất trong năm. Xông đất được tính từ lúc sáng sớm (mặt trời hé
rạng) và trong ngày mồng một. Người kỹ tính không đến thăm nhà khác vào
ngày mồng một, nhất là người còn để tang người thân. Cũng có người chọn
sự ngẫu nhiên trong việc xông nhà để chiêm nghiệm trong năm.
8. Lễ
Lễ là nghi lễ tôn ti trật tự tổ tiên cố cụ, ông bà, cha mẹ, con
cháu, họ hàng, bà con hàng xóm, khách thập phương. Tất cả đều được trân
trọng trước sau, vì thế mới có câu “mồng một lễ cha, mồng hai lễ mẹ,
mồng ba lễ thầy”. Cha là bên nội để lại cho ta dòng họ (theo phụ hệ) vì
thế được xem là quan trọng. Mẹ là bên ngoại cho ta thân thể làm người,
vì thế mà phải trân quý. Thầy là người cho ta hiểu biết nên phải biết
kính mến.
GS. TS Vũ Gia Hiền