. Tuy chỉ được lưu truyền qua các thế hệ bằng phương thức
truyền miệng, nhưng đồng dao và trò chơi-đồng dao đã mang lại cho trẻ em
đời sống tinh thần phong phú qua những cảm xúc vui tươi, hồn nhiên,
trong sáng cũng như một môi trường giáo dục mang tính học tập cộng đồng.
Nhạc điệu của các bài đồng dao thường
rất đơn giản, chủ yếu là dựa trên tiết tấu của lời thơ. Đặc biệt có
nhiều bài thơ ngắn, nhưng câu đầu câu cuối vẫn nối với nhau tạo điều
kiện cho các em có thể hát mãi theo kiểu vòng tròn mà không chán.
“Tu hú là chú Bồ các
Bồ các là bác chim Di
Chim Di là dì sáo sậu
Sáo sậu là cậu sáo đen
Sáo đen là em tu hú…”.
Hay:
“Bí ngô là cô đậu nành
Đậu nành là anh dưa chuột
Dưa chuột cậu ruột dưa gang
Dưa gang cùng hàng dưa hấu
Dưa hấu là cậu bí ngô
Bí ngô ...”.
Hát ru: Ông bà ta nhận
thức rằng để giáo dục trẻ em thì thông qua con đường tình cảm là hiệu
quả nhất. Đầu tiên là tình mẹ con tràn trề thấm thía qua những bài hát
ru:
“Cục ta cục tác
Diều hâu hung ác
Gà con ở đâu
Về mau mẹ ủ
Mẹ con đông đủ
Chẳng sợ diều hâu”.
Các chị lớn hơn, thường phải bế em. Buổi
trưa đánh võng kẽo kẹt, buổi tối đặt em nằm trên chõng tre giữa sân gió
mát, các em hát ru cho bé thiu thiu vào giấc ngủ. Thường các bài hát
bắt đầu bằng câu: “Cái ngủ mày ngủ cho ngoan”, hoặc “Cái ngủ mày ngủ cho lâu”, hoặc “Bồng bồng mà nấu canh tôm”… Có khi chưa có em bé thì bế búp bê, cái gối, cuộn vải… cũng à ơi hát ru mình chơi với mình.
Những bài hát ru thường êm ả chảy dài
đều đều theo thể lục bát dân tộc. Những bài hát ru này các em nghe mẹ,
nghe bà hát mà thuộc dần dần:
“Ru em em hãy nín đi
Kẻo mà mẹ đánh em thì chị đau
Ru em em ngủ đi nào
Chị ra đánh suốt chị vào quay tơ”.
Hoặc dỗ em cho em ngồi lên đùi, lên đầu gối, cầm hai tay em đẩy ra kéo vào như động tác cưa xẻ, hát:
“Kéo kưa lừa xẻ
Ông thợ nào khỏe
Thì ăn cơm vua
Ông thợ nào thua
Về bú tí mẹ”.
Hát gọi: Đây là lời hát
của các em trò chuyện với giới tự nhiên, với mưa, với nắng, với ngọn
gió, con chim, con ốc, cái lá, cái hoa, con bê, con nghé… Các
em hòa đồng, gần gũi với thiên nhiên trong tình bầu bạn. Mỗi vật, mỗi
cảnh tự nhiên đều trở thành một thứ đồ chơi, trò chơi cho các em. Loại
bài hát này mang phong vị nguyên sơ cùng hơi thở chất phác của nó.
Bắt được con cào cào, các em giữ chắc hai đầu càng cho nó nhún nhảy, xập xòe mở cánh:
“Cào cào giã gạo tao xem
Đến mai tao may áo đỏ áo xanh cho cào
Cào cào giã gạo cho nhanh
Đến mai tao may áo đỏ áo xanh cho cào”.
Khúc đồng dao “Nu na nu nống”
không chỉ là một trò chơi vui, mang nhiều tính chất rèn luyện phản xạ,
vận động cho trẻ mà còn là một bài hát đồng dao có giai điệu trong sáng,
vui tươi, lời ca giản dị nhưng đầy hình ảnh thân thương cùng với bài
học giáo dục đạo đức, được trẻ ghi nhớ một cách rất tự nhiên, không hề
khiên cưỡng. Hai ba em ngồi xúm vào nhau, cùng duỗi chân ra. Một em đập
nhẹ vào chân từng người, mỗi cái đập hát một câu:
“Nu na nu nống
Cái Bống nằm trong
Con Ong nằm ngoài
Củ khoai chấm mật
Bà ngồi bà khóc
Con cóc nhảy ra
Con gà ú ụ
Bà mụ thổi xôi
Bà tôi nấu chè
Tò he cống dụt…”.
Đến chữ “dụt” trúng vào chân ai, em đó phải đứng lên nhảy lò cò một vòng quanh các bạn rồi lại ngồi chơi tiếp.
Hay trò chơi-đồng dao “Thả đỉa ba ba”
là một trò chơi rất hào hứng với các trẻ khi cùng một lúc được hát, đi
và chạy theo nhịp điệu thong thả và linh hoạt. Tuy trò chơi đơn giản
nhưng lại rất phù hợp bởi đã đáp ứng được tâm sinh lý của lứa tuổi luôn
có nhu cầu cao về vận động:
“Thả đỉa ba ba
Chớ bắt đàn bà
Phải tội đàn ông
Cơm trắng như bông
Gạo tiền như nước
Đổ mắm đổ muối
Đổ chuối, hạt tiêu
Đổ niêu nước chè
Đổ phải nhà nào
Nhà ấy phải chịu
Một trăm quan tiền
Thiên niên củ khoẳm…”.
Không chỉ cung cấp kiến thức tự nhiên,
đồng dao còn là một kho kiến thức xã hội về hội hè, đình đám, trong họ
ngoài làng, về đồ ăn, thức uống: “Những nồi cơm nếp, những tệp bánh chưng, mứt bí, mứt gừng, mứt chanh, mứt khế…”. Các em được chuẩn bị từ tuổi hoa niên những kiến thức về nghề nghiệp trong xã hội sau này: “Ông thầy có sách, thợ ngạnh có dao, thợ rèn có búa…” hay “Ai cày ruộng nuôi trâu, ai trồng dâu nuôi tằm, ai hay nằm nhịn đói”. Thậm chí các bé gái được đồng dao trang bị cho kiến thức nữ công gia chánh đặc biệt: “Bắt được cua bấy đem về nấu canh, băm tỏi băm hành, xương sông lá lốt”, hay “Canh ốc thì ngọt, canh bứa thì chua”…
Có thể thấy việc học văn hóa cơ bản qua
đồng dao kiểu “học mà chơi, chơi mà học” là một cách giáo dục có ý
nghĩa. Tuy là học mà không dạy chữ nhưng các em vẫn đếm, vẫn tính nhẩm,
cộng trừ từ “chuyền một” đến “chuyền mười”, từ “năm lên sáu” hay “bốn
lên bảy” trong trò “chơi chuyền”. Trò chơi “ô ăn quan” dạy trẻ tính nhẩm
về chia, trừ, quan sát chiều xuôi, ngược để động não một cách tự lực và
kích thích tính chiến thắng tiềm ẩn trong mỗi đứa trẻ.
Trò chơi-đồng dao còn giáo dục thể lực ở trẻ. Qua trò chơi, các em được dịp rèn luyện mắt, chân, tay, thính giác, khứu giác…
Và sau cùng, trò chơi-đồng dao như một
chất keo kết nối những tình bạn trong sáng, ngây thơ giữa lũ trẻ với
nhau mà ta khó tìm thấy trong các trò chơi hiện đại ngày nay.
Kho tàng đồng dao và trò chơi trẻ em
Việt Nam quả thật là những hình thức giáo dục có hiệu quả. Tiếc rằng,
với cuộc sống hiện đại, nó dần dần mai một. Chúng ta hiếm gặp hình ảnh
các em tụm năm tụm ba chơi các trò “Dung dăng dung dẻ”, “Rồng rắn lên
mây”, “Bịt mắt bắt dê”… vào những đêm trăng sáng. Đã đến lúc các nhà
giáo dục nên vào cuộc để duy trì sức sống của đồng dao trong không gian
văn hóa đương đại.
Ngọc Bảo Anh