Những thành tựu của khoa học - công nghệ thực sự đã có nhiều bước
tiến vĩ đại, đặc biệt về tin học, đến nỗi thời đại đang tới được mệnh
danh là "thời đại tin học" ấy vậy mà trong lĩnh vực khoa học xã hội và
nhân văn lại có nhiều vấn đề. dường như các khoa học về luân lý - đạo
đức lại đang “tụt hậu”. Nghịch lý này còn được giải quyết kịp thời khẩn
trương. Chính vì thế mà việc tìm hiểu những giá trị trong văn hóa truyền
thống là có ý nghĩa quan trọng, nhất là những đóng góp nhân văn - nhân
bản của Phật giáo trong văn hóa dân tộc.
Trong cuộc sống tinh thần của con người chồng xếp những mâu thuẫn xã
hội: sinh và tử, thiện và ác, lý tưởng và hiện thực, cảm tính và lý
trí... cứ bao vây xung quanh ta. Sự lựa chọn của con người là tìm kiếm
một mệnh sống trường thọ, là phản đối cái ác, xấu mà mong muốn cái thiện
- cái mỹ: là muốn thoát cảnh khổ đau cầu mong hạnh phúc. Tuy nhiên,
giữa hiện thực mênh mông mà con người lại nhỏ bé, tất cả mong muốn dường
như chí là ảo tưởng. Trong bối cảnh này: Phật giáo lại tạo cho con
người một hy vọng đó là tin vào bản thân, xã hội, có thể cứu được khổ
đau, thoát khỏi tai nạn và có mệnh sống lâu dài.
Phật giáo cũng như các tôn giáo khác, không chỉ là những quan niệm
triết học, mà chính thông qua kinh điển, nghi lễ, chùa chiền, các hình
tượng thờ cúng, chế độ tổ chức tạo thành một lối sống đa dạng, phong phú
để lại những ảnh hưởng sâu sắc trong đạo đức, tư tưởng, văn học, nghê
thuật Phật giáo tự bản thân là một hệ thống ổn định có nhiều thứ lớp,
nhiều hình thức vật thể và phi vật thể. Tự bản thân nó tạo ra sắc thái
văn hóa riêng biệt.
Phật giáo giống các tôn giáo khác, nhấn mạnh chủ thể tự giác, đề cao tự lực bản thân tìm đến cái “giải thoát”.
Phật giáo đại thừa Thiền tông và Adidà tông với lý thuyết cơ bản là
Phật tại tâm, ai ai cũng có Phật tính được truyền nhập vào Việt Nam
tương đối thuận lơi. Xem ra trong quá trình lịch sử thì Phật giáo vào
nước ta không có chướng ngại gì quá sâu sắc, không bị phản ứng gì quá
gay gắt (không như các nho gia Đường Tống Trung Quốc đả kích kịch liệt
vào Thiền môn).
Trước hết Phật giáo có một hệ thống tư tưởng - đạo đức sâu sắc, coi
trọng sư tu dưỡng nhân cách. Muốn làm tín đồ hay theo Phật giáo phải
biết giới, định, tuệ. Giới tính là những quy phạm ngăn cấm các tín đồ
làm việc, nói và suy nghĩ không theo quy định (nhằm điều chỉnh hành vi
của tín đồ và giữa tín đồ với xã hội). Định là giữ trạng thái tinh thần
không xao động để đạt đến tuệ là sự thông suốt mọi lý sự.
Những quan niệm về thiện - ác, về từ bi cũng thuộc phạm trù đạo đức
Phật giáo. Thế nào là thiện, thế nào là các, đó quả là vấn đề vô cùng
phức tạp. Nhưng xét về khía cạnh nào đó, thì ở mỗi thời đại, dân tộc,
nền văn hóa đều có quan niệm thiện, ác khác nhau. Nhà nho cho rằng: cái
gì phù hợp với lương tri con người là thiện, ngược lại là ác. Còn quan
niệm thiện của Phật giáo đại thừa lại có hai ý nghĩa: Một là thuận theo
và phù hợp với tư tưởng “vô thường, vô ngã” (nghĩa là luôn luôn biên đổi
và không có bán ngã): hai là vì lợi ích chung của chúng sinh. Đây chính
là điều làm cho đạo đức Phật giáo có tính thế tục.
Một đặc điểm nổi bật nữa của đạo đức Phật giáo là quan niệm về từ bi.
Nếu như giới, đinh, tuệ về cơ bản là tự rèn luyện bản thân thì những
quan niệm từ bi là để giải quyết quan hệ giữa người với người, giữa
người với xã hội và thiên nhiên trên nguyên tắc có lợi cho người khác.
Kinh Quán vô lương thọ chỉ rõ người có tâm Phật là người đại từ bi. "Từ
là làm cho người ta lạc quan và bi là làm cho người ta thoát khỏi đau
khổ". Từ bi kết hợp với nhau tạo thành nguyên tắc vì lợi ích chúng sinh
mà hành động. Các nhà triết học gọi đó là chủ nghĩa vị tha.
Nhà vật lý học vĩ đại Einstein tuy phủ định thánh thần nhưng vẫn cho
rằng tôn giáo có khả năng nuôi dưỡng cái chân, thiện, mỹ cho bản thân
loài người và khiến cho loài người có khả năng từ yêu cầu của chính bản
thân mà giải phóng dục vọng và sư lo sợ. Trên ý nghĩa này, Einsteincho
rằng: khoa học và tôn giáo đều có khả năng cải tạo thế giới, khoa học
cung cấp kiến thức còn tôn giáo cung cấp đạo đức.
Học thuyết nhân quả báo ứng của Phật giáo cũng tác động vào xã hội
sâu sắc. Nó chỉ rõ xu hướng chuyển động tốt hay xấu của đời người chính
là do nghiệp quyết định. Nghiệp mà con người lựa chọn được phân biệt là
thiện và ác. Thiện nghiệp sẽ đưa đến thiện qủa, ác nghiệp nhất định đưa
tới ác qủa. Nhận thức về nhân quả báo ứng, nhân dân ta thường nói: gieo
gió thì gặt bão, trồng dưa thì hái dưa, đời cha ăn mặn đời con khát
nước...
Phật giáo vào Việt Nam
cũng tạo ra nền văn học, nghệ thuật Phật giáo. Vào thời Ngô Đình Lê và
Lý trần, gần 500 năm, lực lượng sáng tác văn học dân tộc chủ yếu là các
nhà sư. Nổi bật như Pháp Thuận(990), Ngô Chân Lưu (933 - 1044)… Ngô Chân
Lưu được phong là Khuông Việt đại sư có bài từ nổi tiếng “Vương lang
quy”. Nhà sư Mãn Giác (1032 - 1096) có bài “Cáo tật thị chúng nói lên
niềm lạc qua, nhập thế của bộ phận Phật tử. Thiền phái trúc lâm thời
Trần với các vị tổ sư Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang đã để lại
nhiều văn thơ Hán Nôm, thành tựu của lịch sử văn học và lịch sử tư tưởng
thời bấy giờ. GS. Đặng Thai Mai cho biết một nhà Nho hay chữ cuối thế
kỷ XIV có viết trong một bài mình: "Chu
chi đỉnh, thần khí dã, Việt chi đỉnh, Phật khi dã… Phật khi dã, Thần dĩ
biến, Phật thường lạc. Y! hậu nhân mạc trú thác nghĩa là vạc nhà Chu
(bên Trungg Quốc) là đồ thần, đỉnh đất Việt là đồ Phật. Thần dễ thay
đổi, Phật thường vui vẻ. Hỡi người sắp tới chớ đúc lầm.
Trong thời Lê Nguyễn, văn học Phật giáo vẫn tiếp tục duy trì, đồng
thời lại hòa nhập vào làng xã tạo thành thành tố quan trọng trong văn
hoc dân gian Viêt Nam.
Chuyện Tấm Cám là Phật thoại lưu truyền rộng khắp, chuyện bà Ỷ Lan –
một hiện thân của cô Tấm lan rộng khắp Kinh Bắc. Hải Dương chuyên Quan
âm thị kính là đỉnh cao của Văn học phật giáo dân gian. Chính dân gian
Việt Nam có ảnh hưởng của phật giáo Trung Quốc đã chuyển hóa giới tính
của Đức phật Bồ Tát Quan thế âm từ nam tính Ấn Độ sang nữ tính tạo ra
truyện Quan âm thị kính, tượng trưng cho tấm lòng vị tha, cứu nhân độ
thế. Phật giáo đã được dân gian tiếp nhận tạo thành Phật giáo dân gian
và nhờ dân gian mà Phật giáo có sức sống trường tồn mạnh mẽ. Đồng thời
văn học nghệ thuật dân gian có thêm Phật giáo lại phong phú hơn, tương
bổ tương thành.
Nói đến Phật giáo Việt Nam
không thể không nói đến ngôi chùa làng. Chùa thời Lý Trần phần lớn là
chùa, triều đình chùa, quý tộc. Chùa thời Lê Nguyễn chủ yeúe là chùa
làng, tức là chùa dân gian. Khi nam giới tập trung ở ngôi đình thì phụ
nữ trong các hội vãi bà, hội Vu Lan lại quây quần trong chùa làng. Chính
ngôi chùa đã đáp ứng cho nhu cầu tâm linh của “nửa nhân loại” này, nó
sẽ trường tồn trong lịch sử.
Đóng góp của Phật giáo còn cả ở các công trình kiến trúc và điêu
khắc. Nó tạo thành một khuynh hướng thẩm mỹ độc đáo. Trong lịch sử kiến
trúc và điêu khắc Việt Nam không thể không nhắc đến các ngôi chùa như
PHật Tích, Giạm, Bút Tháp, Thiên Mụ, Từ Đàm, Vĩnh Nghiêm… những công
trình kiến trúc quy mô lớn này có kỹ thuật tinh xảo, độc đáo của cách sử
dụng và phối hợp giữa kết cấu kiến trúc và trang trí kiến trúc, cân đối
hài hòa. Những tác phẩm như tượng nghìn tay, nghìn mắt (Bút tháp), các
pho tượng La Hán - Bồ Tát (Tây phương)…
là những công trình nghệ thuật tiêu biểu cho sức sáng tạo của người
xưa, là đỉnh cao của giá trị thẩm mỹ. Trong chùa còn có câu đối, hoành
phi và bia đá tăng thêm dáng vẻ trang trọng, cổ kính khuynh hướng thẩm
mỹ của kiến trúc Phật giáo là tĩnh lặng, huyền hư. Cái đẹp của ngoi chùa
là hòa hợp con người vào thiên nhiên (có núi, có sông, cây cỏ) là sự
khoan thai êm dịu. Có một nền văn học Phật giáo và rõ ràng cũng có một
nền nghệ thuật Phật giáo.
Không thể bỏ qua ẩm thực Phật giáo. Ăn chay đang mở rộng khắp nơi,
nhiều người Châu Âu áp dụng. Thậm chí ngày nay ở Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh
và những thành thị khác đã có cửa hàng ăn chay. Thức ăn chay là loại
thuốc chữa bệnh, thuốc kéo dài tuổi thọ cho những người trung niên và
cao niên.
Trong lịch sử Việt Nam,
ảnh hưởng của Phật giáo đã thành một yếu tố quan trọng được ngưng kết
lại trong đạo đức, văn học - nghệ thuật, trong kiến trúc điêu khắc và
trong ẩm thực. Đó chính là kết quả lựa chọn khác nhau của quá trình lịch
sử.