Sau một thời gian dài nghiên cứu, nhà điêu khắc Lê Đình Quỳ nhận định:
“Pho tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay nổi tiếng ở chùa Bút Tháp chứa
đựng nhiều “ẩn ngữ” cùng một triết lý sâu xa”. Pho tượng còn cho hậu thế
biết nhiều nét về quan điểm thẩm mỹ, nhân sinh quan và vũ trụ quan của
người Việt thời Hậu Lê.
Đặc biệt, khi phát hiện trên thành bên trái bệ tượng khắc dòng chữ Hán:
“Nam Đông Văn Thọ Nam - Trương tiên sinh - phụng khắc”. Các nhà Hán Nôm
tạm dịch: Nam Đông là địa chỉ, Văn Thọ là tên hiệu, Trương là họ, tiên
sinh là bậc trí giả, phụng khắc là phụng mệnh trời đất dựng tượng để
thờ.
Tuy nhiên, theo một số nhà nghiên cứu, thì chữ “phụng khắc” được dịch
là khắc theo ý chỉ của nhà vua. Nhưng thông thường thời xưa, nếu phụng
mệnh vua mà khắc thì tượng phải để ở kinh đô, trong khi pho tượng này
lại được thờ ở một ngôi chùa.
Hàng chữ Hán trên thành bệ cho biết niên đại và tác giả tạc pho tượng
Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Nghi, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam đã khảo sát
khoảng 24 văn bia tại chùa Bút Tháp cũng như dụng công khảo cứu gia phả
họ Trương lưu giữ tại Viện Hán Nôm nhưng không thu được kết quả liên
quan đến dòng chữ trên. Khi tìm về làng nghề chạm khắc truyền thống ở
Hải Dương cũng không thấy có dòng họ này trong làng.
Vậy, phải giải mã dòng chữ này ra sao? Ông Nghi đặt câu hỏi: Nam Đông
có phải là địa danh hành chính thời Lê? Và nếu đúng thì nay thuộc địa
phương nào? Điêu khắc gia họ Trương phải chăng làm đến tước Nam (Công,
hầu, bá, tử, nam)? Lấy hiệu là Văn Thọ?
Đến nay, các nhà khoa học vẫn chưa biết Nam Đông là địa danh ở đâu nên
chưa có lời giải thỏa đáng. Vì thế, đa số chuyên gia mới chỉ tạm bằng
lòng với đáp án: Điêu khắc gia họ Trương, hiệu Văn Thọ, làm đến tước Nam
là tác giả của pho tượng Quan Âm Bồ Tát nghìn mắt nghìn tay ở chùa Bút
Tháp.
Tượng Quan Âm Bồ Tát nghìn mắt nghìn tay
Niên đại tượng cổ
Còn một hàng chữ Hán nữa khắc trên chính diện thành bệ tượng, nội dung:
“Tuế thứ Bính Thân niên thu nguyệt cốc nhật doanh tạo” cho biết pho
tượng được hoàn thành vào ngày lành, tháng mùa thu năm Bính Thân. Vậy,
năm Bính Thân cụ thể là năm nào? Theo ý kiến của nhà nghiên cứu và phê
bình mỹ thuật Phan Cẩm Thượng: “Năm 1647, Trương tiên sinh được mời làm
tượng Phật ở chùa Bút Tháp. Kiến trúc chùa Bút Tháp cơ bản hoàn thành.
Năm 1656, Trương tiên sinh hoàn thành tác phẩm tượng Quan Âm”.
TS Lịch sử Bùi Tiến cho biết thêm: “Dựa vào những nét nghệ thuật tương
đồng với các bộ phận khác trong chùa, rõ nét hơn cả là rồng và cá giống
hình tượng trên tháp Báo Nghiêm nên đa số các nhà nghiên cứu đều đồng ý
niên đại của pho tượng là năm 1656”.
Để có thêm cơ sở khẳng định niên đại pho tượng cổ, các nhà nghiên cứu
vừa qua đã căn cứ vào niên đại bức hoành phi “Sắc kiến - Ninh Phúc thiền
tự” năm Dương Hòa thứ tám đời vua Lê Thần Tông (1642).
Được biết, đây là bằng chứng chùa Ninh Phúc được ban sắc lệnh xây dựng,
tôn tạo từ năm này. “Thậm chí, chùa được trùng tu xong vào năm 1642 -
1643, tức 2 năm trước khi Chuyết Công (trụ trì đời thứ hai chùa Ninh
Phúc) viên tịch. Như vậy, những năm Bính Thân phải là trước năm 1647”,
nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Nghi nêu giả thiết.
Trong khi đó, PGS.TS Đàm Chí Từ từng cho rằng, Ninh Phúc tự từng được
trùng tu khoảng năm 1634 - 1635 và có thể, Thượng điện - Tam bảo được
hoàn thành trước để Chuyết Công trụ trì hoằng pháp. Lập luận này được
nhiều chuyên gia tán thành vì niên đại ghi trên bức hoành phi “Ngự chế -
đại phùng bảo điện” năm 1642. Sau khi Chuyết Công viên tịch thì sư Minh
Hành được truyền y bát, Hoàng thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc được trao
chức Đạo trường mẫu.
Hắc Long tượng trưng cho cái ác
Ý nghĩa pho tượng
Nhà điêu khắc, họa sĩ Lê Đình Quỳ nhận định: “Rất hiếm người hiểu toàn
vẹn ý nghĩa sâu xa và đẹp đẽ của tác phẩm tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn
tay. Bởi vì ẩn trong đó không chỉ là giá trị hội họa mà còn là những
nghĩa lý Phật giáo sâu sắc, kỳ ẩn. “Tượng Quan Âm Bồ Tát thiên thủ thiên
nhãn - dân gian gọi là Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, có thể xem là một
vũ trụ thu nhỏ, được sáng tác theo hệ thống quy luật chặt chẽ. Đó là
những quy luật âm dương ngũ hành và bát quái, luôn bao hàm các cặp phạm
trù đối lập nhưng thống nhất”, nhà điêu khắc, họa sĩ Lê Đình Quỳ cho
biết.
Ông Quỳ cho hay, pho tượng được làm theo thế tam tài giả, tức là mối
quan hệ tổng hòa thiên - địa - nhân. Vòng tròn phía sau được gắn gần một
nghìn bàn tay, trong mỗi bàn tay được khắc một con mắt, đó là biểu
tượng của Trời. Trời theo quan niệm ở đây là vũ trụ thu nhỏ. Trong vũ
trụ, cái thiện được biểu tượng ở thế “tam quang giả”, là 3 cái sáng,
gồm: mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Ở pho tượng này, tác giả cũng
đặt mặt Quan Âm vào trung tâm của pho tượng.
Mặt trời là mặt Phật Quan Âm nổi bật, sáng ngời, đầy vẻ từ bi hỉ xả.
Mặt trời ở đây được thể hiện là bình minh, những tia sáng chiếu tỏa lên
trên chứ không tỏa ngang, ý nói: Cái thiện là thế đang đi lên, có sức
mạnh chiến thắng.
Mặt trời sáng ngời còn là biểu tượng cho trí tuệ đức Phật Quan Âm đi
khắp muôn phương xua tan bóng tối. Những kẻ có hành vi ám muội cũng
không thể che nổi mắt Phật. Để diễn tả thâm ý, tác giả đã khắc con mắt
trong lòng bàn tay biểu tượng cho hàng nghìn vì sao trong thiên hà.
Tất cả con số trên pho tượng đều là số lẻ, hơn 900 bàn tay và hơn 900
con mắt. Tác giả cho rằng số 1.000 là số chẵn, âm, tĩnh, không phát
triển. Số lẻ, dương, động và phát triển không ngừng. Điều đó có nghĩa là
trong vũ trụ có vô vàn vì sao đang quan sát trần gian.
Con rồng đen dưới tòa sen là Hắc Long dưới Biển Đông, tượng trưng cho
cái ác. Tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay ngồi trên tòa sen, cả tòa sen
lại đặt trên đầu con rồng đen, tượng trưng cho cái thiện bao giờ cũng
ngự trị cái ác.
Kiều Trang - Hưng Tiến