Garuda trong tín niệm Hindu
Trong Hindu giáo, Garuda là một vị
thần, và thường là vật cưỡi của thần Vishnu. Garuda được miêu tả có một thân
hình tráng kiện, vàng rực ánh kim của một người đàn ông với mặt trắng, cánh đỏ,
mỏ đại bàng và mũ miện trên đầu. Vị thần cổ xưa này thật to lớn, đồ sộ đến nỗi
che khuất cả mặt trời.
Garuda được biết là kẻ thù truyền
kiếp của loài rắn Naga bởi một lời nguyền. Những con rắn cũng là thức ăn riêng
biệt của chim đại bàng Ấn Độ, loại chim, trong thực tế, có đặc điểm là ngón
chân ngắn. Do đó, hình ảnh Garuda thường được dùng trên bùa hộ mạng để bảo vệ
khỏi rắn cắn và chất độc của rắn. Garudi Vidya cũng là câu thần chú
chống lại nọc độc của rắn và xua đuổi mọi điều xấu xa, quỷ quái.
Garuda trong Hindu giáo được xác
định trong Upanishad, Garudopanishad, tập họp truyện thần kỳ Ấn
Độ Purana, trong đó có một phẩm riêng kể về Garuda (Garuda
Purana). Ở từng tác phẩm cổ xưa đó, Garuda
là một câu chuyện độc lập và những tên gọi khác nhau được quy cho Garuda là Chirada,
Gaganeshvara, Kamayusha, Kashyapi, Khageshvara, Nagantaka,
Sitanana, Sudhahara, Suparna, Tarkshya, Vainateya, Vishnuratha...
Kinh Veda nói đến Garuda sớm nhất,
dù dưới cái tên Syena, vùng đất nơi con chim to lớn đã mang rượu tiên/
mật hoa từ thiên đường xuống trái đất. Trong chuyện thần kỳ Ấn Độ, ra đời sau
đó, cũng đề cập đến Garuda thực hiện một việc tương tự, nhưng nó được định danh
là Dyena (từ tiếng Phạn để chỉ chim đại bàng) và Garuda cũng có hành vi
tương tự. Một trong những bộ mặt của Sri Pancamukha Hanuman/ Hanuman năm mặt là
Mahavira Garuda. Đó là mặt chỉ về hướng Tây. Việc thờ cúng Garuda được tin là
sẽ đẩy lùi mọi ảnh hưởng/ tác động của chất độc ra khỏi cơ thể. Ở vùng Tamil
Vaishnavism, Garuda và Hanuman đều được biết dưới tôn danh là Periya
Thiruvadi và Siriya Thiruvadi.
Trong thánh thư Bhagavad-Gita
(ch.10, câu/ đoạn thơ 30), ở giữa chiến trường Kurukshetra, Krishna
đã giải thích sự có mặt khắp mọi nơi của mình: “Như là đứa con của Vinata,
trong hình thức của Garuda, vua của các loài chim”. Điều này đã cho thấy tầm
quan trọng bao trùm của Garuda.
Hình tướng của Garuda thường lấy
rắn làm “trang sức”. Garuda mang rắn Adisesha trên cổ tay trái và rắn Gulika
trên cổ tay phải. Rắn Vasuki làm thành sợi dây thiêng cho Garuda. Rắn mang bành
Takshaka quấn thành thắt lưng ở hông Garuda. Rắn Karkotaka được mang như chuỗi
hạt. Rắn Padma và Mahapadma là những hoa tai. Rắn Shankachuda được trang trí
trên mái tóc thần. Nằm bên sườn Garuda là hai người vợ Rudra và Sukeerthi (hay
Sukirthi). Đó là tất cả những yếu tố viện dẫn trong Garuda Panchashath
và Garuda Dandaka thuộc Vedanta Desika. Garuda với người phối
ngẫu Rudra và Sukirthi ở hai bên có lẽ được thờ từ thời xa xưa trong điện thờ
Soumya Keshva ở Bindiganavile (hay Mayura puri trong tiếng Phạn) thuộc bang
Karnataka của Ấn Độ.
Garuda Vyuha được thờ cúng ở Tantra
vì Abhichara và để bảo vệ chống lại Abhichara. Tuy nhiên, một điều thú vị,
Garuda là hình thức của Sankarshna - vị chúa tể trong suốt quá trình sáng tạo,
đã sở đắc những hiểu biết, tức những khía cạnh kiến thức khác nhau của vị chúa
tể. Một điểm quan trọng là Garuda biểu trưng cho năm vayus bên trong chúng ta:
prana, vyana, udana, samana, apana qua năm hình thức là Satya, Suparna, Garuda,
Tarkshya, Vihagashwara. Năm vayus thông qua yoga có thể bị kiểm soát bởi
Pranayama dẫn đến hành vi nhận thức Kundalini đưa đến những cấp độ nhận thức
cao hơn.
Garuda đóng
vai trò quan trọng trong hóa thân của Krishna.
Ở trường hợp đó Krishna và Satyabhama cưỡi
trên Garuda đã giết chết Narakasura. Trong trường hợp khác, thần Hari cưỡi
Garuda để cứu con voi mộ đạo Gajendra. Người ta cũng nói rằng cánh chim Garuda
khi bay sẽ đọc tụng kinh Veda.
Garuda trong thần thoại Hindu
Có nhiều truyền thuyết liên quan
đến Garuda, một vài truyền thuyết bắt nguồn từ văn học Pali và Sanskrit. Các
tác phẩm văn học Phạn ngữ (Sanskrit) là Ramayana, Mahabharata và các
truyện cổ tích Ấn Độ và trong Pali, đó là bộ Tam tạng (Tripitaka).
Trong tác phẩm văn học Phạn ngữ,
Garuda là con của Kasyapa. Nhiều truyền thuyết nói rằng Kasyapa là một nhà hiền
triết quyền uy, có nhiều vợ, nhưng hai người vợ được yêu chuộng nhất là hai chị
em Vinata và Kadru. Kadru đã cầu xin Kasyapa ban cho mình nhiều con, do đó, cô
đã sinh ra 1.000 con rắn Naga. Những con rắn Naga này đã chọn cuộc sống ở thế
giới bên dưới sâu trong đại dương. Vinata cũng cầu xin chồng ban cho hai người
con nhưng có sức mạnh hơn hẳn những đứa con của Kadru. Vinata sinh ra được hai
quả trứng. Vinata đã chờ đợi đến 500 năm nhưng quả trứng vẫn không có động tĩnh
gì. Mất hết kiên nhẫn và quá tò mò, Vinata đã làm vỡ một trong hai quả trứng để
xem cái gì đang diễn ra bên trong.
Trong quả trứng là một đứa trẻ đã
phát triển phần thân trên nhưng không có chi dưới. Biết mẹ là người đã gây nên
sự méo mó, dị dạng, đứa trẻ vô cùng giận dữ. Vị này đã thốt ra lời nguyền rủa:
Mẹ/ Vinata sẽ trở thành người hầu/ nô lệ cho người chị em Kadru trong suốt 500
năm, rồi bay đi. Cuối cùng vị này trở thành người đánh xe ngựa cho thần Mặt
trời Surya (Suriya) mà sau đó được biết đến như là Aruna (Arun).
Quả trứng thứ hai của Vinata 500
năm sau cũng nở và đó là Garuda. Ngay khi nở ra từ trứng, Garuda đã sở hữu một
hình thể khổng lồ: khuất lấp cả bầu trời, mỗi cái vỗ cánh khiến quả đất rung
lắc dữ dội, một sức mạnh khủng khiếp ngang với đám cháy lớn của vũ trụ, hủy
diệt toàn bộ thế giới và kết thúc mọi thời đại. Thậm chí các vị thần còn lẫn
lộn ánh sáng rực rỡ phát ra từ thân vàng kim của Garuda với ánh nắng chói chang
của mặt trời giống như thần lửa Agni. Quá khiếp sợ, các vị thần đã cầu xin
Garuda. Nghe thấy những lời thỉnh cầu khẩn thiết, chim thần đã giảm bớt kích
thước và sinh lực của mình.
Lời nguyền rủa của Aruna cuối cùng
cũng trở thành sự thật khi Vinata và Kadru tranh cãi về màu sắc của con ngựa
trong quá trình quấy biển sữa (tuy mục đích chính của việc quấy biển sữa là để
tìm ra thuốc trường sinh amrita). Vinata tin rằng con ngựa có màu trắng tuyền.
Còn Kadru nói rằng nó có màu xám, do vậy con ngựa sẽ có vài cọng lông đen. Cuộc
tranh cãi dữ dội này đi đến việc đánh cuộc kẻ nào thua cuộc sẽ trở thành nô lệ
cho người thắng cuộc suốt 500 năm.
Con ngựa thực tế có màu trắng
tuyền. Kadru biết điều đó, nhưng vì không muốn mình là kẻ thua cuộc nên Kadru
đã ra lệnh cho những đứa con Naga của mình đính những cọng lông đen vào con
ngựa để nó có màu xám. Vinata ngây thơ nên thua cuộc, trở thành nô lệ cho Kadru
và bị giam cầm ở thế giới bên dưới cùng với những cư dân Naga.
Garuda sau đó mới biết được âm mưu
xảo trá này. Nhưng để giải thoát cho mẹ, Garuda đã thỏa thuận với những con rắn
Naga là sẽ mang về cho chúng thuốc trường sinh để đổi lấy sự tự do cho mẹ.
Garuda đấu với các thần linh thuộc
hạ của thần Indra. Garuda quá mạnh mẽ đến nỗi lưỡi tầm sét, vũ khí tối thượng
của thần Indra đã bị đập vỡ tung. Bấy giờ thần Vishnu lại nhảy vào tiếp chiến.
Bất phân thắng bại, để kết thúc, thần Vishnu hứa ban cho Garuda đặc ân bất tử
và vị trí cao hơn vị trí các thần khác. Garuda cũng tình nguyện trở thành vật
cưỡi cho thần Vishnu và lập kế hoạch lừa những con rắn Naga để lấy lại thuốc
trường sinh sau khi giải thoát cho mẹ mình.
Ân huệ mà Garuda giành được từ thần
Indra (một vài truyền thuyết nói rằng là từ thần Vishnu) là loài rắn Naga sẽ
trở thành thức ăn truyền kiếp của Garuda. Do đó, Garuda chộp và giữ chặt những
con rắn Naga dưới móng vuốt của mình, mổ vào đuôi Naga để moi ruột và chỉ ăn
những con béo mập, vứt xác chúng xuống dưới đại dương sâu thẳm.
Trên đây là nội dung câu chuyện
thần thoại khá phổ biến về nguồn gốc của Garuda cũng như mối thù truyền kiếp giữa Garuda và loài rắn Naga. Câu chuyện trên có
rất nhiều dị bản với những tình tiết thêm thắt hay
có phần khác biệt...
Quyển đầu của thiên sử thi Mahabharata(1)
thêm thắt rằng:... Lúc bấy giờ, thuốc trường sinh amrita được tìm thấy và thuộc
sở hữu của các thần. Thuốc trường sinh đó được bao bọc bởi một vòng tròn lửa
lớn bao trùm cả bầu trời cộng với những cánh quạt sắc nhọn như lưỡi dao chặn ở
lối vào và hai con rắn độc khổng lồ nằm canh sát bên cạnh lọ thuốc.
Biết được ý định của Garuda, các vị
thần đã dàn quân để đánh. Garuda đã đánh bại toàn bộ đám đông và rải họ về tứ
phía. Lấy nước từ các con sông ngậm vào mồm, chim thần đã dập tắt đám lửa bảo
vệ của các vị thần và vứt nó đi. Thay đổi kích thước, Garuda trườn qua những
cánh quạt của cổ máy giết người. Và cuối cùng, Garuda xé xác hai con rắn bảo vệ
khổng lồ, lấy thuốc trường sinh ngậm trong mỏ mà không nuốt chúng, lao vào
không trung, về với những con rắn đang hăm hở chờ đợi.
Cuối cùng, Garuda bay đến và đậu
xuống phía trước những con rắn đang chờ đợi. Đặt thuốc trường sinh trên cỏ và
mẹ Garuda được thả ra. Garuda đã thuyết phục những con rắn cử hành lễ thanh tẩy
trước khi uống thuốc trường sinh. Khi bọn rắn hối hả, gấp rút thực hiện lễ
nghi, thần Indra đã lao xuống và mang thuốc tiên đi mất. Những con rắn trở lại
sau lễ tắm gội thấy thuốc trường sinh biến mất nhưng còn rơi rớt vài giọt nhỏ
đọng trên cỏ. Chúng cố gắng liếm lấy liếm để khiến cái lưỡi bị chẻ/ tách ra làm
hai. Từ đó trở đi, những con rắn với chiếc lưỡi chẻ đôi và sự lột da được xem
như là một đặc tính của sự trường sinh/ bất tử.
Dị bản khác lại cho rằng: ... Chỉ
có thần Vishnu là có khả năng đánh bại Garuda. Và khi Garuda bị khuất phục,
thần Vishnu đã nhảy vọt lên trên Garuda để phát lời thề quy phục và phục tùng.
Vishnu sau đó đã dùng Garuda làm vật cưỡi cho mình và ban cho Garuda sự bất tử.
Trong các thần thoại Hindu sau đó, Krishna, hóa thân thứ tám của thần Vishnu,
đã sử dụng Garuda làm vật cưỡi cho thần để đánh bại con rắn Naga to lớn Kaliya.
Ở Thái Lan, các bản dịch cũng coi Krut
(Garuda) như là phương tiện chuyên chở cho thần Vishnu và công cuộc tìm
kiếm thuốc trường sinh amrita được dựa trên nền tảng truyền thuyết Ấn Độ. Câu
chuyện kể rằng Garuda đã đánh bại mọi sinh vật trên trời để giành lấy thuốc
trường sinh amrita. Đó là thần dược được bảo vệ nghiêm ngặt, mà không ai có thể
lấy được chúng kể cả Narai (Vishnu) ngoại trừ Garuda. Cuối cùng, một thỏa thuận
được thực hiện để giải quyết mọi thù hiềm: khi Narai ở trong cung điện trên
trời cao của mình, Garuda sẽ có địa vị cao hơn, trên đỉnh cột phía trên cung
điện Narai. Tuy nhiên, khi Narai muốn đi du ngoạn đây đó, Garuda phải phụng sự
chuyên chở cho Narai.
Từ đó, Garuda được liên kết với các
vị thần và là vật cưỡi đáng tin cậy của Vishnu, cũng như sự thù địch không thể
nguôi được, Garuda luôn bắt lấy những con rắn một khi có dịp.
Theo Mahabharata, Garuda có
6 người con có nguồn gốc từ loài chim. Những thành viên của loài này có một sức
mạnh to lớn mà không có chút lòng trắc ẩn với loài rắn. Vishnu là người bảo hộ,
che chở cho chim thần(2).
Trong suốt Mahabharata,
Garuda được viện dẫn như là biểu tượng cho sức mạnh dữ dội, cho tốc độ, và sự
dũng cảm, tinh thần thượng võ. Những chiến binh hùng mạnh tiến lên một cách
nhanh chóng và dũng mãnh trước kẻ thù giống như Garuda lao bổ xuống những con
rắn(3). Những chiến binh bại trận giống như những con rắn bị đập bổ
bởi Garuda(4). Nguyên soái Drona đã hình thành quân đội theo tên
Garuda(5). Krishna thậm chí mang
hình tượng Garuda trên ngọn cờ hiệu của mình(6).
Các tình tiết liên quan đến Garuda
đặc biệt phổ biến ở các nước Đông Nam Á, thông qua các dị bản của sử thi
Ramayana [Phra Lắc-Phra Lam (Lào), Riêmkê (Khmer), Ramakien (Thái Lan) cũng như các di bản khác ở Indonesia, Malaysia...]. Ở đó,
Garuda được biết đến nhiều nhất là trận chiến của nó
chống lại chúa chằn Ravana (Krông Riếp (Khmer), Tossakan (Thái Lan)...).
Trong dị bản Thái Lan của sử thi Ramayana
là Ramakien, có đề cập đến con chim lớn Sadayu là con trai
của Garuda. Nó có một người anh em, cũng là một con chim khổng lồ là Nok
Sumpatee. Trong truyện kể, Sadayu là một con chim lớn với thân màu xanh lục.
Một ngày nọ, con chim đã chứng kiến cảnh Tossakan (Ravana, nhân vật phản diện
chính của truyện) bắt cóc nàng Sida (Sita), vợ của hoàng tử Rama. Chim đã đánh
nhau một cách dũng cảm với Tossakan. Tên khổng lồ không thể nào đánh bại
Sadayu. Nhưng chim Sadayu đã mắc một sai lầm khi đột nhiên nói rằng: “Ta không
sợ bất cứ thứ gì ngoài thần Shiva, thần Vishnu và chiếc nhẫn của nàng Sita”.
Chúa chằn nghe thấy điều đó và nhận
ra điểm yếu của chim, hắn lập tức tháo chiếc nhẫn ra khỏi ngón tay nàng Sita và
ném vào Sadayu. Một cánh của Sadayu bị nát tan và chúa chằn cắp lấy nàng Sita
mang đi.
Tuy bị đánh bại và trọng thương,
Sadayu vẫn cố gắng mang chiếc nhẫn đến trình báo với hoàng tử Rama, trước khi
nín thở tự vẫn vì nỗi ô nhục bại trận.
Hình tượng chim Sadayu được thể
hiện trong điêu khắc, hội họa các đền, chùa, cung điện cũng như các loại hình
nghệ thuật biểu diễn và các thể loại sân khấu truyền thống của các nước Đông
Nam Á - đặc biệt là hình thức sân khấu mặt nạ và múa rối bóng.
Bên cạnh đó cũng có câu chuyện về
chim Sumpatee - một người con của Garuda và là người anh lớn của Nok Sadayu.
Tương tự về hình dáng với Sadayu nhưng thân màu đỏ thay vì xanh lục. Sumpatee
là một con chim luôn nghĩ đến người khác bởi hành động dũng cảm của mình.
Câu chuyện xảy ra khi Sumpatee và
người em Sadayu, sống ở trên núi Ussakan. Sadayu vì còn trẻ và ngây thơ nên đã
mắc sai lầm khi tưởng mặt trời sáng rực kia là trái cây và cố để ăn nó. Thần
Mặt trời vô cùng giận dữ đã cố gắng thiêu cháy con chim bằng cách phóng ra những
tia sáng chết người. Sumpatee thấy em mình bị trừng phạt bởi thần Mặt trời nên
đã lấy thân mình che chắn bảo vệ cho em khỏi những tia nắng bỏng rát, sắc nhọn.
Sức nóng của nó khiến lông Sumpatee rơi rụng. Vẫn còn tức giận, thần Mặt trời
đã buông lời nguyền rủa khiến Sumpatee vẫn mãi trụi lông và đày tới hang động
Hemarantee. Chỉ đến khi quân đội của Hoàng tử Rama mang chiếc nhẫn của nàng
Sita tới, lời nguyền rủa mới hết hiệu lực.
Garuda trong tín niệm Phật giáo
Garuda, phiên âm Hán-Việt là Ca-lâu-la
điểu hay Ca-lâu-la (Phạn: Garuda, Pali: Garula), loài
thần điêu có cánh vàng. Hán dịch: Thực thổ bi khổ thanh, Kim sí điểu, Diệu
sí điểu (Phạn: Suparni, Hán âm: Tô-bát-lặc-ni) vì có cặp cánh
rất đẹp; hay còn gọi: Gia-lâu-la điểu, Ca-lưu-la điểu, Già-lâu-là điểu,
Yết-lộ trà điểu (7).
Đây là một loại chim diều hâu trong
thần thoại Ấn Độ được thiêng hóa: thân to lớn và hung dữ, là loại chim của thần
Vishnu cỡi. Tương truyền lúc chim này sinh ra, thân phát ra ánh sáng chói lọi,
chư thiên lầm tưởng là Hỏa thiên nên kéo nhau đến lễ bái.
Về hình tướng, theo kinh Bồ-tát
tùng đâu thuật thiên giáng thần mẫu thai thuyết quảng phổ 7, Kim sí điểu
chúa thân cao 160.000km, mỗi cánh dài 80.000km.
Pháp hoa văn cú: Loài Kim sí điểu có cặp cánh màu vàng ròng, ở trên những
cây đại thọ trong bốn Đại châu. Loài rồng hay chư long vương rất sợ loài Kim sí
điểu. Cặp cánh của thần chim ấy khi xòe ra mà bay đi, thì choán ba trăm ba mươi
sáu vạn dặm.
Về thần lực, kinh
Niết-bàn cho rằng loài Kim sí điểu, hễ
ăn vào các vật như: rồng, cá, vàng bạc và các loại châu báu, thì các vật ấy
tiêu hóa hết, chỉ trừ có chất kim cang.
Theo kinh Luật dị tướng 48,
chim này quạt cánh phát ra luồng gió có thể làm mù mắt người.
Người ta nói rằng khi Garuda vỗ
cánh sẽ tạo ra các trận cuồng phong làm u ám bầu trời và thổi đổ những ngôi
nhà. Con người quá nhỏ bé khi so sánh với Garuda và con người có thể ẩn nấp
trong bộ lông chim Garuda mà không ai có thể biết được (Kakati Jataka,
truyện số 327). Garuda cũng có khả năng bứng toàn bộ cây đa kể cả rễ và mang
chúng đi.
Về phân loại, loài Kim sí điểu
(Ca-lâu-la) có hai hạng: 1/ Hạng độc ác, hại
phá các thú, chim, cá, nhất là ưa sát hại loài rồng (long); 2/ Hạng tu
hành, mộ nghe Chánh pháp, ủng hộ những nhà chân tu Đại thừa.
Hạng này là một bộ trong bát bộ chúng thường hiện đến nghe Phật thuyết
kinh Đại
thừa(8).
Ngoài ra, kinh Trường A-hàm 19
cho rằng Kim sí điểu có 4 loại: Noãn sanh (từ trứng sanh ra), thai sanh (sanh
từ bào thai), thấp sanh (sanh từ nơi ẩm ướt) và hóa sanh (do biến hóa mà sanh
ra). Kim sí điểu thuộc noãn sanh, có thể ăn được cả loại rồng noãn sanh; Kim sí
điểu thai sanh có thể ăn loài rồng thai sanh và noãn sanh; Kim sí điểu thấp
sanh có thể ăn loài rồng thấp sanh, noãn sanh và thai sanh; Kim sí điểu hóa
sanh có thể ăn loài rồng hóa sanh và các loài rồng khác.
Về mối thù truyền kiếp với Naga,
theo kinh Quán Phật tam muội hải 1, chim này do nghiệp báo nên ăn được
các loài rồng, trong khoảng một ngày ở cõi Diêm-phù-đề có thể ăn một con rồng
chúa và 500 rồng nhỏ.
Những con Garuda xa xưa kia vồ chộp
các Naga và túm lấy đầu chúng. Loài Naga đã biết được điều đó nên chúng đã nuốt
những hòn đá lớn khiến chúng trở nên nặng nề khi Garuda mang đi. Điều này sẽ
khiến Garuda chết vì sự kiệt sức hay mệt lử. Khi bí mật này được nhà tu hành
khổ hạnh Karambiya tiết lộ cho một con chim Garuda, họ đã dạy chúng cách tóm
lấy Naga bằng đuôi và ép chúng nôn ra những viên đá (Pandara Jataka,
truyện số 518). Để hạn chế tính sát sanh của Garuda, trong Mahasamyatta
Sutta thuật lại việc Đức Phật giải hòa tạm thời giữa Naga và Garuda.
Theo các kinh Đại thừa thì loài
chim này được liệt vào một trong 8 đại bộ chúng, cùng với trời, rồng,
a-tu-la... tất cả được xếp dưới tòa trong hội thuyết pháp của Phật, và Garuda
là một trong số những sinh vật được Sakra chỉ định canh gác núi Sumeru và trời
Trayastrimsa khỏi sự tấn công của các Asura.
Thêm vào
đó, chúng ta còn thấy kinh tạng Phật giáo đề cập đến Kim sí điểu vương(9) để
chỉ vua loài Kim sí điểu,
cũng gọi âm theo Phạn: Ca-lâu-la vương. Và Kim sí điểu vương cũng là
tiếng dùng xưng tặng Đức Phật. Ví dụ, người ta xưng Phật
là: Kim sí điểu vương, Ngưu vương, Tượng vương.
Thời Phật giảng kinh Diệu pháp
liên hoa, có bốn vị Kim sí điểu vương (Ca-lâu-la vương) dự nghe, mỗi vị dắt
theo rất nhiều quyến thuộc trong loài Kim sí điểu. Đó là 4 vị Kim sí điểu
vương: 1/ Vị vua Garuda đầy quyền năng và đức hạnh, 2/ Vị vua Garuda có cơ thể
to lớn, 3/ Vị vua Garuda toàn năng, và 4/ Vị vua Garuda thỏa nguyện, có một
trăm ngàn thuộc hạ hộ tống theo hầu.
Loài Garuda có các vị vua và vương
quốc riêng của chúng, và một vài Garuda có thể biến hóa thành người khi nó muốn
quan hệ, giao thiệp với con người. Trong một vài trường hợp, các vị vua Garuda
có những mơ mộng, lãng mạn với nữ giới trong hình dạng con người. Chúng ngụ ở
các khu rừng nhỏ của simbali hay những cây bông gòn.
Trong kinh Niết-bàn, quyển
38, có câu: Từ xưa đến nay, chưa ai nghe thấy rằng bậc Kim sí điểu vương lại đi
tranh với chim quạ! (Tức như bậc đại nhân chẳng thèm hại kẻ tiểu nhân). Điều
này cho thấy Kim sí điểu vương là vị nhất bậc tôn kính.
Trong Mật giáo thì Ca-lâu-la là hóa
thân của Phạm Thiên, Tỳ-nữu Thiên, Đại Tự Tại Thiên... Có chỗ cho là hóa thân
của Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi, thuộc hướng Nam của Kim Cang bộ, ngoại viện
mandala Thai Tạng giới. Mặt khác, Mật giáo cũng đề cập đến Ca-lâu-la pháp,
còn gọi Ca-lâu-la đại pháp. Trong pháp tu của Mật giáo, việc thờ
Ca-lâu-la vương (Kim sí điểu) làm bản tôn, là bí pháp tu hành để trừ bệnh hoạn,
ngăn gió mưa, tránh sấm dữ...
Theo kinh Ca-lâu-la
và chư thiên mật ngôn, người tu pháp môn này có thể qua lại tự tại trong
các cõi trời, người, những người oán ghét và quỷ thần đều không dám lại gần;
pháp này còn là pháp thành tựu hơn hết trong các pháp. Theo Ca-lâu-la pháp
chư quỹ trong Giác thiền sao, thì tu pháp này có thể được những công
đức như lợi ích trong thời mạt pháp: chóng linh nghiệm, thành tựu được ngọc báu
trong tâm của tất cả loài chim chúa quý, người tu hành được của báu ở Long
cung, được cam lộ trên cõi trời, được Long vương đến và tuôn mưa tuyết xuống,
tránh khỏi được nạn rắn rít, làm tan rã quân trận, hàng phục oan gia, được
người yêu kính, trừ được bệnh hoạn, gọi được người ở xa, kêu được những loại
cá... Thêm đó, chúng ta còn thấy có Kim sí điểu ấn(10), còn được gọi
là Kim sí điểu vương ấn: hai ngón cái giao nhau, hai bàn tay xòe ra như đôi
cánh, kết thành hình Kim sí điểu (chim cánh vàng) động ba lần, như dạng đang
bay. Đây là một trong các thủ ấn Phật giáo.
Tín niệm Garuda ở một số quốc gia Phật giáo
Từ tiếng Phạn Garuda được vay mượn
và biến đổi trong ngôn ngữ một vài quốc gia. Ở Miến Điện, Garuda được gọi là galone.
Trong thuật chiêm tinh Miến Điện, phương tiện di chuyển của hành tinh chủ nhật
là galone. Ở Thái Lan, Garuda được gọi là Krut. Ở Indonesia là Burung
Garuda với nghĩa chim Garuda/ chim đại bàng. Trong ngôn ngữ Kapampangan của
Philippine, từ bản địa để chỉ chim đại bàng là galura. Ở Mông Cổ, Garuda
được gọi là Khan Garuda hay Khangarid. Garuda/ Khangarid, biểu
tượng của thủ đô Mông Cổ, Ulan Bator.
Theo tín ngưỡng phổ biến của người Mông Cổ, Khangarid là thần linh của
dãy núi Bogd Khan Uul, người đã trở thành môn đệ trung thành của Đức Phật. Ngày
nay, được xem như là người canh gác/ bảo hộ dãy núi và là một biểu tượng của sự
can đảm và chân thật. Ngoài ra, trước và sau mỗi vòng đấu vật, những đô vật
người Mông Cổ biểu diễn lễ nghi Garuda, một sự cách điệu mô phỏng Khangarid và
một con chim ưng/ diều hâu.
Tên Trung Hoa của Garuda là loài
chim Bằng khổng lồ (một loài chim thần thoại), vị vua của loài chim với đôi
cánh vàng rực lấp lánh. Chúng được biết có khả năng tăng giảm kích cỡ to hay
nhỏ, lớn hay bé, xuất hiện hay biến mất. Đôi cánh mở rộng 330 yojanas (1 yojana
dài khoảng 40 dặm). Với một cái đập/ vỗ cánh, chim Bằng có thể làm khô cạn nước
biển để ngấu nghiến những con rồng nơi đáy biển sâu kia. Với một cái vỗ cánh
khác, nó có thể phá sập núi, nhấn núi chìm sâu vào lòng đại dương.
Ở Nhật Bản, Garuda được gọi là Karura(11).
Karura là một sinh vật thiêng liêng có thân người, đầu chim trong Phật thoại
Hindu Nhật Bản. Karura, tên gọi được phiên âm từ Garuda (Phạn: Garuda,
Pali: Garula), dựa trên các bản dịch Phật giáo Nhật Bản. Một sinh vật
tương tự, xét theo tên gọi là konjicho (chim cánh vàng) gốc từ tiếng
Phạn: suparna.
Karura được xác tín là một sinh vật
khổng lồ, thở ra lửa, ăn rồng/rắn; Garuda là tai ương/nghiệp chướng của loài
Naga. Chỉ duy nhất một con rồng có một lá bùa phù của Đức Phật, hay một kẻ cải
đạo chuyên tâm nghe Đức Phật thuyết pháp, mới có thể tránh được những tổn hại
từ Karura. Shumisen/núi Meru được cho là nơi cư ngụ của Karura.
Karura là một trong những sinh vật
bị thay đổi tín niệm khởi nguyên và biến thành hình thức người/vật giữ của,
canh gác gọi là Hachibushu (chư thiên của bát bộ chúng).
Phổ biến hơn là Karura được thể
hiện như là một sinh vật có cánh với thân người và đầu chim, như trong Kim
Cương viện (Kongo buin), bộ phận thuộc trung tâm mandala (Taizokai mandara) và
những mô tả bằng tranh trong kinh văn và tranh giấy cuộn. Một ngoại lệ là tượng
Karura ở điện thờ Kofukuji, Nara (một trong tám tượng chư thiên hiện diện trong
lễ khai thị, tổ chức vào năm Tenpyo 6 hay 734 sau Công nguyên). Karura được mô
tả mặc kiểu áo giáp đời nhà Đường và do đó không có cánh.
Về hình tướng, Karura có thể bị
nhầm lẫn với Hoo hay chim phượng hoàng. Mặt nạ Karura là một loại mặt nạ có đặc
điểm cổ xưa được các nghệ sĩ múa sử dụng trong vũ điệu gigaku cổ xưa của Nhật
Bản. Trong nghệ thuật tạo hình Phật tượng, những vầng hào quang biết đến với
tên gọi “ngọn/ánh lửa Karura” là đặc trưng tiêu biểu được trang trí ở phía sau
tượng Fudo-myoo/Bất Động Minh Vương. Và mặt khác, Karura cũng được cho là
nguyên mẫu của thuật vẽ/họa tengu hay karasutengu.
Ở Tây Tạng, Garuda được gọi là khyung
hay mkha’lding(12); ở đây Garuda Ấn Độ khá tương
đồng với Bonpo khading (Tây Tạng: mkha’ lding), chim đại bàng
vàng kim có sừng, vua của muôn loài chim và chim Bon của lửa.
Garuda được tin rằng có vai trò
quan trọng trong quá trình chuyển giao Dzogchen của truyền thống Nyingma và
Bon. Trong truyền thống Nyingma, Garuda là hiện thân phẫn nộ tướng của Đức Liên
Hoa Sinh (Padma-sambhava) và trong terma (Tây Tạng: gter-ma) hay truyền
thống chôn giấu châu báu, Garuda được tôn kính như là người canh gác/bảo vệ kho
báu. Như là một vị thần, Garuda được nối kết một cách mạnh mẽ với Chấp Kim
Cương Thần (Vajrapani) và Mã Đầu Quan Âm (Hayagriva). Bộ ba diệu pháp hay rèn
luyện pháp môn của ba vị thần đó sẽ đẩy lùi mọi trở ngại và bệnh tật, đặc biệt
là những tai họa do rắn gây ra cũng như đau thận, dịch bệnh và ung thư. Trong
luyện tập thực tiễn có nhiều thể thức khác nhau của Garuda được hình dung tương
ứng với từng phần khác nhau của cơ thể.
Một nhóm năm Garuda tương ứng với
năm màu, nguyên tố, hiểu biết và đặc trưng của năm vị Phật: vàng (đất), trắng
(nước), đỏ (lửa), đen (không khí), xanh hay đa sắc (không trung). Garuda đa sắc
có màu vàng dưới eo (đất), trắng từ hông đến rốn (nước), đỏ từ rốn đến cổ họng
(lửa), đen từ cằm đến trán (không khí), xanh dương hay
lục trên đỉnh đầu (sự hiểu biết). Lông cánh của Garuda đa sắc này có năm màu,
như ánh sáng của cầu vồng tỏa ra mười hướng, biểu trưng
cho các nguyên tố của không khí. Thỉnh thoảng lông ở đầu cánh được bịt vajra.
Garuda có hai hoặc ba mắt, luôn vàng rực ánh kim.
Garuda là vật
cưỡi của Amoghasiddhi (Phật Bất Không Thành Tựu xanh) của phương Bắc, chúa tể
của nghiệp chướng hay những tác động/ảnh hưởng của gia đình.
Garuda trong Phật thoại
Theo ghi chép trong kinh Phật,
Garuda được Phật giáo thu nạp, trở thành một trong tám bộ chúng hộ pháp. Sau
đây là một trong những truyền thuyết cho thấy rõ sự thu nạp cả hai linh vật đối
địch là Naga và Garuda về với Phật giáo, hộ trì cho Phật pháp.
Trong kinh Phật có ghi rằng,
Garuda là một loài đại bàng cực lớn, với sải cánh hàng nghìn thậm chí hàng vạn
dặm, chuyên ăn thịt rồng. Khi Garuda vẫy đôi cánh lớn về phía biển, nước biển
lập tức rẽ làm đôi, đáy biển lộ ra, loài rồng đang núp dưới đáy biển sẽ bị
Garuda dùng chiếc mỏ kim cương bắt lấy ăn thịt. Mỗi ngày Garuda phải ăn thịt
một con rồng lớn (tức Long vương) và 500 con rồng nhỏ (tức con cháu của Long
vương).
Do Garuda tàn sát loài rồng quá
mạnh, đã khiến Long vương vô cùng kinh hoảng, bèn cầu xin Phật đà cứu giúp tộc
rồng. Đức Phật bèn lệnh cho Long vương thống lĩnh cả gia tộc rồng tiếp nhận Bát
quan trai giới, và ban cho Long vương một tấm cà-sa cũ, dặn Long vương xé ra
phát cho mỗi rồng cháu rồng con một dải buộc lên trên sừng.
Long vương làm y theo lời dặn của
Phật đà. Quả nhiên từ đó về sau, Garuda không còn bắt rồng ăn thịt nữa. Long
vương sinh lòng đại hoan hỷ, bèn quy y cửa Phật và trở thành thần hộ pháp của
Phật giáo.
Tuy rằng tộc rồng đã được bảo vệ,
nhưng Garuda không ăn thịt được rồng trở nên đói khát, bèn tìm đến Phật đà biện
bạch. Đức Phật bèn nói rằng: “Ngươi ăn thịt rồng là tạo nghiệp sát sinh, kiếp
sau sẽ gặp quả báo. Nếu như ngươi biết quy y Tam bảo, trì thủ ngũ giới, ta sẽ
căn dặn đệ tử Tam bảo hàng ngày cho ngươi một bữa cơm chay trong khi cúng Phật,
ngươi ăn tự nhiên sẽ thấy no. Như vậy, không cần phải tìm rồng ăn thịt nữa!”.
Garuda nghe lời, bèn quy y Tam bảo, tiếp nhận ngũ giới, trở thành thần hộ pháp
của Phật giáo.
Trong Mật tông, giáo pháp thần tài
Garuda ngoài tác dụng xua đuổi bệnh tật, điều hòa gió mưa, tránh sấm sét, thêm
vào đó, theo những ghi chép trong giáo pháp Garuda, tu trì pháp môn này sẽ có
các công đức như nhận được báu vật long cung, được mưa cam lồ, nạp tài tiến
bảo, cầu mưa, gọi rồng, hàng phục rắn rết, xua đuổi bệnh tật... Cho nên, Garuda
đã trở thành vị thần tài ứng nghiệm trong Mật giáo(13).
Như vậy, tín niệm và thần thoại về
Garuda khởi phát từ Hindu, về sau hội nhập vào Phật giáo ít nhiều có sự chuyển
biến cho phù hợp với giáo pháp nhà Phật. Câu chuyện thần thoại Hindu về
Garuda-Naga thể hiện một sự thù hằn dai dẳng hay đó cũng là biểu trưng cho hình
ảnh lẽ phải luôn chiến thắng mọi điều sai trái như Garuda chế ngự Naga. Còn
trong Phật thoại, Garuda được nhìn dưới cái nhìn vị tha hơn, xóa bỏ mọi hận
thù. Vô số tác phẩm nghệ thuật tạo hình Garuda cũng là một kho tàng hết sức đa
dạng. Do cách hiểu riêng, cộng với sự tích hợp các tín niệm bản xứ vào Garuda
nên mỗi cộng đồng dân cư ở từng quốc gia Phật giáo lại tạo tác nên các hình
tướng độc đáo, tạo nên một tập thành vô cùng đa dạng về hình dạng và phong
cách. Đề tài hấp dẫn này, chúng ta sẽ đề cập vào dịp khác.
Huỳnh Thanh Bình
___________________
Chú thích
(1) Mahabharata, cuốn I: Adi Parva, phần 23.
(2) Mahabharata, cuốn V: Udyoga
Parva, phần 101.
(3) Xem:
- Mahabharata, cuốn
VIII: Karna
Parva, phần 77.
- Mahabharata, cuốn
VIII: Karna
Parva, phần 59.
- Mahabharata, cuốn I: Adi Parva, phần 140.
(4) Mahabharata, cuốn VIII: Karna Parva, phần 85.
(5) Mahabharata, cuốn
VII: Drona
Parva, phần 20.
(6) Mahabharata, cuốn VIII: Karna Parva, phần 94.
(7) Từ điển Phật học Huệ Quang, tập 2, tu viện Huệ Quang,
1995
(8) (9) Theo Phật học từ điển, Đoàn Trung Còn, Nxb. Tổng Hợp TP.HCM, 2011.
(10) Theo Toàn tập giải thích các thủ ấn Phật giáo, Nguyễn Tuệ Chân biên
dịch, Nxb.Tôn Giáo, 2008.
(11) Xem: - Shincho encyclopedia of world art,
Shinchosha, 1985.
- Hindu gods and goddesses in Japan, Saroj Kumar Chaudhuri, tr.151.
- Japanese dictionary; Shinmura, Izuru; Iwanami; 1976; tái bản lần thứ
2.
- Art research foundation; Murano, Takao; Tetsurô Kôno (dịch), 1997.
(12) Theo The
handbook of Tibetan Buddhist symbols, Robert Beer, Serindia xb, 2003, tái
bản 2011.
(13) Theo Phương pháp thờ thần tài Mật tông, Đại đức Thích Minh Tông, Nxb. Tôn Giáo, 2010.