. Tiếng chiêng trống, những bộ mặt dữ tợn đen xì, đỏ gay của mấy ông
tướng cùng cờ quạt phất phới gắn đầy người, làm con bé nhát gan như tôi
vừa thấy là khóc thét lên. Lớn lên chút, Hát Bội chỉ còn là hình ảnh
những bộ trang phục sặc sỡ treo tòn teng gần cửa sổ căn gác ngôi đình
đối diện rạp hát Văn Cầm, gần nhà tôi. Thời tiểu học, ngày hai buổi đi
về trường Võ Tánh trên đường Võ Duy Nguy, tôi hay đi ngang qua ngôi đình
có gánh Hát Bội thường xuyên diễn ở đấy. Tôi thường say mê nhìn lên
khung cửa đó, nơi có các đào kép hát ngồi trang điểm hay vẽ mặt cho
nhau. Phấn son trên gương mặt các cô đào trong tuồng hát ngày nào một
phai mờ theo bụi thời gian đến khi tôi ra tới hải ngoại, môn nghệ thuật
cổ truyền này chỉ còn trong trí tôi là những tiếng “ư ư ử ử” đầy ấn
tượng.
Lần du lịch Trung Quốc, tôi được xem những nghệ nhân Trung
Hoa trình diễn Beijing Opera thật hay và đầy tính nghệ thuật khiến tôi
liên tưởng tới nghệ thuật Hát Bội của người mình. Tôi chợt nhận ra Hát
Bội là một ngành nghệ thuật sân khấu trình diễn cao và có nhiều nét đẹp
cổ xưa mà ngày nay người ta không nhận ra hoặc đã bị mai một vì nó không
còn hợp thời nữa. Nhất là nghệ thuật vẽ mặt của Hát Bội, nó mang một
nét đặc thù mà những nghệ thuật cổ ca khác không có. Biết khéo léo ứng
dụng những đường nét riêng biệt và khác nhau của màu sắc để miêu tả
trạng thái, vai trò của nhân vật là những biểu trưng căn bản của nghệ
thuật Hát Bội.
Hát Bội được du nhập qua Việt Nam vào thế kỷ thứ
13 nên nghệ thuật hát diễn, trang phục, tuồng tích, đều tương tợ như
Kinh Kịch là loại kịch của Thanh triều tại kinh thành Bắc Kinh, tức "Bắc
Kinh kịch nghệ". Hát Bội còn được gọi là Hát Bộ. "Bộ" đây có nghĩa là
diễn xuất của nghệ sĩ đều phải phân đúng từng bộ diễn, "diễn Bộ", "ra
Bộ".
Trước đây hàng trăm năm đã xảy ra việc tranh cãi về từ “Hát
Bộ” hay “Hát Bội” và tạo nên nhiều cuộc bút chiến lý thú. Người bênh vực
cho từ “Hát Bội” lý luận rằng Bội có nghĩa là bội phần. Hát Bội có
nghĩa là hát có quần áo đàng hoàng tử tế, có mũ mão, cân đai, đeo thêm
cái này, cái nọ. Các vở tuồng Hát Bội chỉ lấy nét chính của một tuồng
tích mà dựng lớp. Một câu chuyện dài như Ngũ Hổ Bình Tây, Phản Ðường, mà
chỉ lấy khoảng 10 lớp diễn là đủ cả câu chuyện nên gọi là xếp lại, gấp
lại, nhân lên mà gọi là Bội. Có người còn cho rằng chữ Bội là bội bạc,
các đào kép hát thường lãng mạn, có cuộc sống thiếu đạo đức hay bội phản
về tình duyên, nên gọi là Hát Bội
Ca dao có câu “có chồng say
như trong chay ngoài bội, ngó vô nhà như hội Tần Vương” hay “Trồng trầu
trồng lộn dây tiêu, con theo Hát Bội mẹ liều con hư”
Nghệ thuật
vẽ mặt của Hát Bội là một tinh túy xuất phát từ Kinh Kịch và có từ lâu
đời lắm rồi. Có lẽ từ triều đại nhà Tùy và Đường ngày trước. Lúc đó
trong các buổi tế lễ người ta hay dùng những mặt nạ trông rất dữ tợn để
xua đuổi ma quỷ vì người ta tin rằng loài quỷ dữ chỉ sợ những gì hung
tợn hơn chúng. Đến đời Minh, nghệ thuật sân khấu và trang điểm mặt cho
nghệ sĩ phát triển và cải thiện khiến nó trở thành những quy ước chặt
chẽ. Cuối cùng đến đời nhà Thanh thì nghệ thuật hoá trang cho các vai
trò của nghệ nhân đã được hoàn chỉnh.
Trang điểm khuôn mặt cho
một nghệ sĩ trước khi lên sân khấu là một nghệ thuật. Vẽ, pha màu cũng
như áp dụng màu sắc cho đúng vai diễn của nghệ nhân đòi hỏi người vẽ mặt
phải có một nghệ thuật chuyên môn cao và điêu luyện. Tôi từng được ngồi
xem nghệ sĩ Trần Tường Nguyên trang điểm và vẽ mặt cho các học sinh lớp
Hát Bội do cô Ngọc Bày hướng dẫn và thấy được công việc ấy không phải
dễ làm, nhất là đối với các em thiếu nhi. Các em vì tính năng động mà
ngồi, đứng không yên, lúc lắc liên tục. Mất khoảng nửa tiếng mới vẽ xong
khuôn mặt tướng tuyệt đẹp cho một em. Vẽ vừa xong, em đã chạy tới chạy
lui, khuôn mặt nhễ nhại đầy mồ hôi, rồi em đưa tay áo lên quẹt, phấn màu
phai tùm lum, thế lại phải vẽ và trang điểm lần nữa.
Trong nghệ
thuật Hát Bội hay Hát Tuồng, những màu sắc chính được trang điểm trên
mặt thường để phân biệt tính tình, nhân sinh quan cũng như đạo đức của
một nhân vật. Sắc mặt đỏ biểu hiện cho sự can đảm, tận tụy, ngay thẳng.
Đen tượng trưng cho người hung tợn, mạnh mẽ. Vàng là tham vọng, mạnh mẽ,
trầm tính. Xanh là trung thành, mạnh mẽ, sắc sảo. Trắng có thể gọi là
độc ác, lừa lọc, đa nghi, xảo trá. Tím dành cho trầm tĩnh, liêm chính,
còn Bạc và Vàng(Gold) cho thần linh và thượng đế. Do những qui định của
màu sắc mà người xem biết mình đang đối diện những nhân vật nào trên sân
khấu mà không phải đoán hay nghĩ nhiều. Kẻ trung, người nịnh, ai minh
chánh, kẻ gian tà đều hiện rõ dưới ánh đèn sân khấu.
Dưới con mắt
người Tây Phương hay thế hệ của chúng ta nhìn vào nghệ thuật Hát Bội,
có lẽ sẽ cho rằng tại sao lại có một ngành nghệ thuật sân khấu cổ quái,
ồn ào và kỹ thuật ca hát có nhiều tiếng hò hét thế kia. Nhưng nếu chúng
ta đi sâu vào lịch sử của ngành cổ ca này, ta sẽ hiểu thấu lý lẽ nói
trên. Ngày xưa, Hát Bội được trình diễn ở các nơi công cộng như chợ búa
hay miễu, đình là những nơi ồn ào, hỗn loạn nên phải có những âm thanh
lớn, rền rĩ hơn mới lôi cuốn được sự chú ý của người xem. Y trang cũng
vậy, màu sắc phải đối chọi để bắt mắt người nhìn dẫu cho nó trông sặc
sỡ, diêm dúa. Nghệ thuật trang điểm, không những phải thật lộng lẫy mà
còn phải độc đáo cho mỗi nhân vật, mỗi vai trò. Mỗi cử chỉ, động tác của
diễn viên đều áp dụng nguyên tắc nói trên và theo một quy ước sân sấu
được bố trí và định sẵn.
Tuồng tích phần lớn là những kịch bản
phóng tác có tính cách kinh điển, giáo dục quần chúng của Trung Quốc
trích trong các pho truyện như Tam Quốc Chí, Ngũ Hổ Bình Tâỵ…v..v… Phần
lớn nội dung nói lên lòng trung, hiếu, tiết, nghĩa và tinh thần tôn sư
trọng đạo.
Nghệ thuật sân khấu này đòi hỏi kiến thức lãnh hội của
người xem lẫn người diễn. Vì sự khiếm khuyết của cảnh trí, phương tiện
cũng như vật dụng trên sân khấu mà những biểu tượng được thay thế cho
vật thiệt đã ra đời và được giải thích cho người xem để họ thuộc nằm
lòng. Tỷ như khi một vị tướng cầm cây roi có tua tủa những sợi vải hay
tua xanh đỏ, khán giả phải tưởng tượng cái roi ấy chính là con ngựa của
vị tướng đó.
Ở miền nam Việt Nam, sau 1975, các trường dạy về
nghệ thuật trong đó gồm có hát bội, cải lương , kịch nói, cổ ca, đạo
diễn vẫn được duy trì. Ngay tại các địa phương nào còn ưa chuộng Hát
Bội, các đoàn hát bội thành phố hay được mời về diễn trước để tạ ơn thần
thánh sau để dân chúng xem.
Tôi có duyên gặp gỡ và tiếp xúc với
Nghệ sĩ Ngọc Bầy. Cô tốt nghiệp bộ môn Hát Bội khóa đầu tiên năm
1960-1964 tại Trường Quốc Gia Âm Nhạc Saigon, dưới sự dìu dắt của các
nghệ sĩ Võ Văn Tài, Dương Ngọc Ðắc (Ba Ðắc), Huỳnh Hữu Hạnh (Hữu Thoại)
và Nguyễn Thị Nhỏ. Sau khi tốt nghiệp, nghệ sĩ Ngọc Bày dạy ngay tại
Trường Quốc Gia Âm Nhạc Saigon. Sau năm 80 bà về làm tại đoàn nghệ thuật
thành phố và đã đào tạo được nhiều thế hệ nghệ sĩ.
Ðịnh cư tại
Hoa Kỳ từ năm 1992, nghệ sĩ Ngọc Bày đã trình diễn tại nhiều sinh hoạt
cộng đồng và tại một số đại học như UCLA và San Diego State University.
Khi qua Mỹ cô mang theo một số tài liệu giảng dạy và sách vở cùng một
cái trống con với ước vọng mở các lớp dạy về Hát Bội, hầu có thể gìn giữ
được ngành cổ ca này. Nhưng khi hỏi hay nhắc tới Hát Bội, khán giả hải
ngoại phần lớn không có kiến thức hay hiểu biết gì về môn nghệ thuật
này, nên cô bỏ ý định trên. Ngày ấy, giáo sư Nghiêm Phú Phi nguyên cựu
giám đốc trường quốc gia âm nhạc Sài Gòn trước năm 75 đã ra công quy tụ
các cựu diễn viên, các giáo sư âm nhạc và thành lập một hội ái hữu
trường Quốc Gia Âm Nhạc hải ngoại. Mỗi khi có dịp họp mặt thân hữu hay
hội hè, hội thường đi diễn ở các nơi công cộng, nhà hàng hay các hội
trường, hội quán. Năm 2003, một vị giáo sư Nhật dạy ở đại học UCLA về
văn hoá dân tộc Đông Nam Á, tình cờ biết cô và mời cô đến trường hát và
diễn lại một số tuồng tích để giới thiệu những nét văn hoá về nghệ thuật
cổ ca của Việt Nam.
Cô được phỏng vấn và hỏi về lối giáo dục
diễn viên hát bội được dạy hát và diễn xuất như thế nào. Cô trả lời rằng
trong giai đoạn phôi thai, các giáo sư giảng dạy như cô Hai Nhỏ, ông
Phú Thoại, Sáu Vững trong ban Vân Hạc, phải dùng một phương pháp cổ
truyền là đời trước truyền miệng, đời sau học thuộc lòng và cứ thế làm
theo. Học sinh học một lớp tuồng Thoại Ba công Chúa hay Lưu Kim Đính,
dạy tới đâu học tới đó, không biết cách dạy ca riêng, vũ đạo riêng. Và
cô Ba Đắc, cô Hai Nhỏ, mỗi người dạy một kiểu, mỗi cô có lối luyến láy
riêng. Vì không có phương pháp chép nhạc theo Ký âm pháp, các học viên
mạnh ai nấy hoặc thuộc lòng hoặc ghi chép theo lối của mình. Để nhớ các
điệu hát lên xuống cô phải dùng cái mũi tên với vị thế lên, xuống hoặc
nằm ngang vẽ thêm vào cho dễ nhớ.
Sau này, cô viết thành giáo
trình hay giáo án rõ ràng để dạy. Khi ấy Cô Ngọc Khanh là con cô Ba Út
và một học trò đã ra trường phụ cô viết giáo trình. Cô có ước muốn chép
nhạc các ca điệu cổ dựa trên ký âm pháp theo một nền tảng quy định căn
bản như bên tân nhạc. Tuy nhiên ước muốn của cô không phải dễ thực hiện
vì cô chỉ là một nghệ nhân diễn và dạy, còn công việc kia đòi hỏi một kỹ
thuật thuộc về các nghiên cứu nên cần người chuyên môn hơn.
Khi
còn ở trường Sư Phạm, học trò các lớp khác như Cải Lương, Kịch Nói hay
chạy qua trêu chọc học trò lớp Hát Bội bằng những tiếng.. ư .. ư …a
..a…Tôi có hỏi cô tại sao lại có tiếng ư ư như thế trong lối hát. Cô trả
lời rằng, ngày xưa trong các môn nghệ thuật, mỗi môn có lối ngân riêng.
Hát Chèo của người Bắc chữ i í i i ì í i được dùng để ngân. Hát Bội
dùng chữ ư, còn Cải Lương thì chữ ơ. Sân khấu hát bội lưu động thời đó
không có màn che gió, không có hệ thống khuếch đại âm thanh mà khán giả
xem đông vì chỉ có Hát Bội là ngành sân khấu duy nhất. Do đó khi hát gió
bạt tiếng ca, khiến lời ca thành không rõ chữ, diễn viên muốn khán giả
đứng xa nghe được phải ngân chữ ư cho dài, cho rõ. Tỷ như chữ “phản mã”,
diễn viên sẽ phát âm là “phản ư ư ư mã” người đứng xa sẽ nghe dễ dàng
hơn. Tuy nhiên khi gió tạt tiếng ca chỉ còn sót lại âm “ư .. ư “ trong
không khí mà thôi. Ngày xưa người hát phải lấy hơi bụng. để có thể hát
lớn, la to, có khi bể hơi, bể tiếng, bể thanh đới. Bây giờ kỹ thuật tân
tiến, diễn viên biết cách lấy hơi, lại có nhạc và âm thanh trợ giúp
khiến người hát ca dễ và hay hơn xưa.
Năm 2009, hội Kenneth
Foundation ngẫu nhiên xem được chương trình Hát Bội của cô trên mạng
trường UCLA và cơ hội đến khi họ tình nguyện yểm trợ tài chánh cho cô
được mở lớp giảng dạy hát bội. Vì thời gian eo hẹp, nên cô phải đổi quy
trình giảng dạy, nghĩa là không dạy từ bước một, mà đi thẳng vào việc
diễn xuất nên khi xem người rành về ngành này có thể thấy nó không chính
xác từ nguyên thủy. Vì bộ môn này khó học nên những người đã có căn bản
từ các bộ môn khác như Cải Lương mà học môn này dễ bị ảnh hưởng Cải
Lương vào nên khi hát dễ bị lai đi. Còn các em nhỏ khi học và diễn
thường chính xác hơn vì chúng như tờ giấy trắng học làm sao, hát ra làm
vậy. Nó lại có tính ước lệ, nên học trò phải học tất cả các quy ước được
đặt ra mà diễn, hát, vũ đạo cho đúng.
Cô kể lại giai đoạn lớp
học mới thành lập, khi dạy và được mời đi diễn, lớp không có đầy đủ y
trang. Khi mới qua Hoa Kỳ, cô chỉ mang được một bộ đồ văn và bộ đồ võ,
do đó cô phải mượn những y trang cải lương của ông Lương Văn Tỷ(giám đốc
đài truyền hình, truyền thanh) lúc ấy chế biến lại để mặc tạm. Chúng
trông từa tựa y trang hát bội, ngộ biến tùng quyền, cô dùng vải đắp
miếng này ở trên, miếng kia ở dưới, gắn tới lui sao cho giông giống thì
thôi. Ở hải ngoại ngày nay, khi diễn một tiểu phẩm hay tuồng tích Hát
Bội cần thuyết minh và dẫn chứng. Thí dụ phải cắt nghĩa lối lên sân khấu
có hai cửa buồng, một đi ra gọi là cửa buồng sanh và một đi vào gọi là
cửa buồng tử. Diễn viên khi ra sân khấu phải ra ở cửa buồng sanh và
những người thủ vai trung thần khi chiến thắng trở về phải đi vào cửa
buồng sanh. Cửa buồng tử được xử dụng cho tất cả mọi người để đi trở vào
và cũng dành cho người đi đánh giặc khi chết cũng chạy vào đây. Các
buồng sanh, tử được chia làm 4 góc, 2 góc thượng và 2 góc hạ.
Khi
diễn viên đi một vòng trên sân khấu, khán giả phải tưởng tượng người đó
vừa qua sông. Khi họ hát câu văn chim kêu vượn hú, có cá, có cầu và
những câu miêu tả cảnh vật người xem sẽ tưởng tượng ra các cảnh vật
trước mắt như mưa bay, liễu rũ …v…v…khán giả phải biết đó là cảnh sông
núi mà liên tưởng tới.
Phần thuyết minh sẽ dẫn giải cho người xem
biết diễn viên cỡi ngựa như thế nào. leo lên bàn đạp, nắm cương ngựa,
quật roi ra sao. Cây roi tượng trưng cho con ngựa và rất đa dụng theo vị
trí của nó. Lúc nó ở trước người diễn, nó tượng trưng cho đầu ngựa, khi
ở sau nó là đuôi ngựa. Nếu được giơ thẳng nó là roi ngựa, hay bị quật
xuống chân diễn viên nó thành chân ngựa. Cây roi được quất liên tục tức
diễn viên đang phi ngựa.
Tất cả những biểu tượng này đã khích
thích và làm giàu óc tưởng tượng của khán giả và nó được dùng chỉ vì
ngày xưa kỹ thuật sân khấu còn sơ khai. Lớp người thưởng ngoạn cũ đã có
kiến thức về cách diễn rồi nên họ tự động thông hiểu các điệu bộ nói
trên, nhưng lớp khán giả mới sau này cần phải được giải thích rõ ràng
thì nghệ thuật cổ ca này mới nổi lên được.
Cái khó nhất của Hát
Bội là không còn được phổ biến và không có giới thưởng ngoạn. Tuy nó là
một tinh túy văn hoá dân tộc nhưng nó bị xem là không hợp thời nữa.
Trước
tiên nó không đáp ứng được trào lưu tiến hóa theo thời đại của lớp trẻ.
Ðiệu hát quá khác xa với các điệu ca nhạc tân thời du nhập từ Tây
phương. Lối hát Nam xuân, Nam ai, Xuân nữ, Khách, Tẩu mã, Bạch, Xướng
theo điệu kèn, trống, đờn cổ xưa đã trở nên lỗi thời lạc lõng với thời
đại. Vì vậy ít người thưởng thức, nếu tổ chức, những đêm hát không bán
vé được bao nhiêu, không đủ tiền để nuôi nổi đoàn tuồng. Hiện nay tại
Bình định, chính quyền có thành lập một đoàn hát bội gọi là Ðoàn tuồng
Bình định, nghệ sĩ ăn lương nhà nước, nhưng cũng không đạt được yêu cầu.
Các huyện cũng có các đoàn nhưng nghệ sĩ không đủ sống phải bỏ đi làm
các nghề khác.
Lối hành văn trong các tuồng Hát Bội thường theo
thể biền ngẫu, mỗi câu mỗi chữ phải đối nhau, dùng nhiều từ Hán Việt và
điển tích nên rất khó hiểu, nhất là những câu hát Khách toàn là chữ Nho
nên không phổ biến được, lớp trẻ bây giờ lại ít hiểu, không hiểu thì
không thể nào cảm nhận và ưa thích được.
Mối ưu tư của những người còn ưa thích nghệ thuật cổ ca là làm sao duy trì, sống lại và phát triển các ngành nghệ thuật này.
Theo
giáo sư Ngọc Bày, ở hải ngoại, muốn phục hưng hay gìn giữ, nó đòi hỏi
rất nhiều nhiệt tâm, công sức của nhiều người. Nó cần phải được canh
tân, hiện đại và Việt ngữ hoá cổ ca. Đồng thời cần được sự hỗ trợ của
truyền thông, cũng như các đài truyền hình. Ngoài ra còn cần phải được
giới thiệu vào các hệ thống học đường, đại học, hay trung tâm Việt ngữ,
như một bộ môn văn hoá nghệ thuật quốc tế. Hát Bội có thể được giới
thiệu như một trong hai nghệ thuật cổ xưa của Việt Nam là Hát Bội và Hát
Chèo. Ngoài ra nó cần có một trụ sở để diễn cho tất cả các tầng lớp
khán giả từ trẻ tới già. Tỷ như ở Las Vegas, Nevada có một sân khấu
Broadway chuyên diễn Beijing Opera thường xuyên, giá vé tới 200 đô một
xuất mà người xem vẫn coi đông dù phải đặt chỗ trước. Việc quan trọng
hàng đầu là tài chánh và việc nâng đỡ hay tài trợ của chính phủ hay các
tổ chức là điều cần thiết. Con đường phục hồi ấy thật là chông gai nhưng
nó là một ước mơ mà giáo sư Ngọc Bày và những người ủng hộ cô đang thực
hiện được. Điều quan trọng nhất là sự quyết tâm cao đẹp mà cô cố gắng
gìn giữ để bảo tồn Hát Bội từ bấy lâu nay.
TRỊNH THANH THỦY
TẢN MẠN VỀ HÁT BỘI BÌNH ÐỊNH
Võ Ngọc Uyển
Nói về quê hương Bình định, người ta thường nghĩ ngay đến các anh hùng
liệt sĩ đã làm vang danh rạng rỡ trong lịch sử Việt nam: Quang Trung
Nguyễn Huệ, Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng, Bùi thị Xuân, Ngô tùng Châu,
Mai Xuân Thưởng, Tăng Bạt Hổ v.v... Nơi đó cũng là cái nôi của Võ thuật
miền Trung được diễn tả đấy đủ trong câu ca dao:
Ai về Bình định mà coi
Con gái Bình định cầm roi đi quyền
Và cũng là nơi phổ biến thịnh hành tuồng Hát bội.
1.- Trước tiên, danh từ Hát bội và nghệ thuật Tuồng có từ thời nhà Trần
nước ta (1226-1399). Khi quân Nguyên Mông sang xâm lược với ba trận
đánh khốc liệt, Hưng Ðạo vương Trần Quốc Tuấn bắt được ông Lý Nguyên Cát
người Trung hoa, ông này có tài về hát tuồng diễn kịch, giao cho tướng
Trần Nhật Duật tổ chức các đội hát tuồng để ủy lạo, giúp vui cho tướng
sĩ. Danh từ Hát bội có từ đó, vì cách tổ chức trình diễn theo lối bát
điệu (tám mặt), hình thức tám cái sân khấu đâu lưng nhau, quay mặt ra
tám hướng theo hình bát quái: Tây Bắc, chánh Bắc, Ðông bắc, chánh Ðông,
Ðông Nam, chánh Nam, Tây Nam, chánh Tây. (Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly,
Khôn, Ðoài). Một đội tuồng gồm tám đoàn nhỏ, rất đông đào kép, nghệ sĩ.
Tám sân khấu đều hát chung một tuồng, cùng một lúc. Hướng Tây Bắc dành
cho vua, gia đình của vua và các quan đại thần thưởng lãm vì hướng này
thuộc Càn tượng trưng cho Trời (Thiên tử: vua là con của Trời), các cửa
sân khấu khác dành cho các hạng tùy theo thứ bậc, phẩm hàm, của các quan
trong triều kể cả gia đình thứ dân, do vậy người nào cũng được xem ở
bất cứ hướng nào, nên người ta gọi là hát bội. Bội là gấp lên, nhân lên,
như một tấm gương phản chiếu hình ảnh khắp mọi nơi. Ví dụ: hát tuồng Cổ
thành (Quan Công phò nhị tẩu) thì khi đến lớp tuồng Trương Liên lên
giáo đầu (khổ đầu) thì cả tám sân khấu đều có nhân vật Trương Liêu cùng
vẽ đúng một khuôn mặt, quần áo, mũ hia đều giống nhau.
Mãi về sau này, vì hoàn cảnh xã hội, vì kinh tế, người ta giản lược đi, ở
triều đình chỉ còn hát tứ diện (4 mặt sân khấu) và trong dân gian, các
gia đình có thế lực hay cự phú, người ta tổ chức hát lưỡng diện (hai mặt
sân khấu) mới đủ khả năng kêu gọi đào kép qui tụ và tiền bạc để nuôi ăn
cho nghệ sĩ (con hát). Ví dụ: Năm 1930, ông chánh tổng Ky (cha của ông
Nguyễn An Thạch, bà con của anh Nguyễn An Phong) tổ chức hát bôi lưỡng
diện ở thôn Càn rang xã Cát thắng, Phù cát. Năm 1932, cụ tuần Bửu Xuyên
(tức cụ Ðào Phan Duân ở thôn Biểu chánh, xã Phước hưng, Tuy phước) cũng
tổ chức hát bội có hai sân khấu.
Do vậy mà ta có thể
nói là hát bội chứ không phải hát bộ được. Việc tranh cãi về từ "Hát
Bội" và "Hát Bộ" đã xảy ra nhiều lần, nhất là trước 1975. Có nhiều người
không rõ nguyên do và lý luận theo mỗi cách khác nhau đã biện hộ cho ý
kiến của mình. Người chấp nhận chữ BỘI thì cho rằng vì các vở tuồng hát
bội chỉ lấy nét chính của một tuồng tích mà dựng lớp. Một câu chuyện dài
như Ngũ Hổ Bình Tây, Phản Ðường, mà chỉ lấy khoảng 10 lớp diễn là đủ cả
câu chuyện nên gọi là xếp lại, gấp lại, nhân lên mà gọi là Bội. Có
người còn cho rằng chữ Bội là bội bạc, các đào kép hát thường lãng mạn,
có cuộc sống thiếu đạo đức hay bội phản về tình duyên, nên gọi là HÁT
BỘI. Người cho chữ BỘ là đúng thì quan niệm rằng hát bộ là phải có bộ
tịch, múa may, chỉ trỏ cho đúng với ý nghĩa của câu tuồng nên gọi là HÁT
BỘ, hoặc cho rằng khi cụ Ðào Tấn còn làm quan, được vua cho lập bộ Ðình
để trùng hưng lại môn hát bộ mà cho là Hát Bộ chứ không phải Bội. Cả
hai trường hợp lý luận như vậy thì ta thấy trong nghệ thuật cải lương
cũng có. Tuồng cải lương cũng diễn tả những câu chuyện Tàu, cũng lấy lớp
ngắn lại và diễn xuất điệu bộ rất công phu, nhất là cải lương Hồ quảng,
sao người ta không gọi là Hát Bội hay Hát Bộ?
2.- Nguyên nhân hát bội thịnh hành, phổ biến rộng rãi ở miền Trung và nhất là Bình định.
Trước nhất là ông Ðào Duy Từ được gọi là ông tổ hát bội đầu tiên của
Bình định. Ai cũng biết ông Ðào Duy Từ là một người có tài quân sự điều
binh khiển tướng như Khổng Minh Gia Cát Lượng, ông đã tự ví mình như Gia
Cát Võ Hầu nên sáng tác tập thơ "Ngọa Long Cương vãn". Ông là người tài
kiêm văn võ, rể của tể tướng Trần Ðức Hoà, cánh tay mặt của Chúa Hiền ở
Ðàng Trong, Ông được phong chức Táng tương Quân vụ, người dân thường
gọi ông là "Nội Táng hầu", có câu ca dao:
Thương em, anh cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam giang
Phá Tam giang ngày nay đã cạn
Truông nhà Hồ Nội táng giới nghiêm...
Ông đã có công đắp lũy gọi là Lũy Thầy (chữ thầy là chỉ ông Ðào Duy Từ)
để chống quân chúa Trịnh ở miền Bắc, nhưng ông cũng là người rất sành
về ca nhạc, thi thơ, ông là con của một nữ đào hát nổi tiếng ở kinh
thành Thăng long, học giỏi, tài cao nhưng không được đi thi vì là con
của đào hát thuộc tầng lớp "xướng ca vô loại", do vậy, ông đã bỏ vào Nam
thi thố tài năng sở học của mình và được chúa Nguyễn trọng dụng. Ông
Ðào DuyTừ đã đặt các tuồng hát bội và tổ chức những đoàn hát. Với các vở
tuồng rất hay đến ngày nay vẫn còn lưu truyền: San Hậu (Ông Ðình, Ðổng
Kim Lân, Khương Ninh Tá), Sơn Hà Xã Tắc, nội dung đều mang ý nghĩa phục
thù, rửa hận: Nịnh thần soán đoạt ngôi vua, trung thần phò ấu chúa trốn
chạy ra miền biên cương tìm căn cứ gầy dựng lại binh lực, chiêu hiền đãi
sĩ để diệt chế độ do nịnh thần thống trị, cũng giống như trường hợp
Nguyễn Hoàng vào Nam muốn diệt Trịnh phò Lê. Việc tổ chức hát tuồng, hát
bội trở thành lợi khí chính trị vận động đồng bào miền Nam gia nhập
quân đội chống lại miền Bắc, vừa giải trí giúp vui cho quân sĩ lúc xa
nhà.
Ta sẽ thấy tài nghệ văn chương của ông Ðào Duy Từ ở đoạn văn
hát Nam Ai sau đây của nhân vật Ðổng Kim Lân trong lúc trở về Sơn Hậu:
(Tán): Xếp ngọn ngũ lui khỏi Tạ Thành
(Chi nữa) Lên Cật Ký trông chừng San Hậu
Nam: San Hậu phản phản lối cũ
Ðoái Tạ thành (còn đọc là thiềng) lụy đổ dường mưa
Ngọn cờ, tiếng trống bơ thờ
(Mẹ, mẹ ơi, con biết liệu làm sao đây!)
Thảo thân, ngay chúa sững sờ hai vai
(Hò, họ)
Bước đường mai, phong ai chi sá
San Hậu thành đoái đã gần đây.
Tâm sự của một người tướng tài như Ðổng Kim Lân, bị Tạ Ôn Ðình bắt mẹ
treo trên đầu thành, bảo Kim Lân phải đầu hàng, nỗi lòng buồn như thất
trận của một vị tướng: "Ngọn cờ, tiếng trống bơ thờ" thật là não nề thê
thiết. Nều đầu hàng địch là bất trung mà không đầu là bất hiếu: "Thảo
thân, ngay chúa, sững sờ hai vai". Chữ "sững sờ" thật là đắc địa không
còn chữ nào thế được!
Hiện nay tại Bình định, họ Trần và họ Ðào còn dòng dõi rải rác ở các huyện Phù cát, An nhơn, Tuy phước.
Và giữa triều Nguyễn, Bình định lại sản sinh được một kịch tác gia về
tuồng hát bội là cụ Ðào Tấn ở làng Vinh thạnh xã Phước lộc, huyện Tuy
phước. Ông sinh năm 1845, đậu cử nhân khoa Ðinh Mão (1867) tại trường
thi Bình định. Năm 1871 được gọi ra Huế làm Hiệu thư. Thời kỳ "bốn tháng
ba vua" ông bỏ về nhà tu ở chùa Linh Phong (chùa Ông Núi). Tu được ba
năm thì được gọi ra làm quan, sau thăng dần làm Tổng đốc Quảng nam, Tổng
đốc Nghệ an, sau cùng là Thượng thư bộ Công, thụ Hàm Vinh Quang Tử, một
trong tứ trụ đại thần, Cơ mật viện, Ðông các điện Ðại học sĩ. Ông cũng
là một nhà nghệ sĩ tài hoa, rất sành về kỹ thuật hát bội, đam mê nó đến
nỗi khi làm Tổng đốc Nghệ an, đem theo người bạn trong làng, một nghệ sĩ
hát bội, là ông đội Hiệp, thành lập một đoàn hát vừa là lính hầu, lính
lệ, vừa là nghệ sĩ của đoàn hát, các người đó cũng có phẩm trật như ông
Bát Phàn người làng Phú phong, sau này về hưu, lập đoàn hát bội tại Phú
phong rất nổi tiếng. Ông Bát Phàn (bát phẩm) là thầy ông Cửu Vỵ ở Bình
nghi, ông Bầu Ba ở Nhơn hoà. Vì vậy ở Bình định mãi về sau này từ năm
1920 đến năm 1945 nổi lên nhiều gánh hát bội rất hay, có nhiều người
được phong làm Chánh ca ở tỉnh và ở huyện như: Chánh ca Ðông, chánh ca
Ghình, chánh ca Ðựng...
Các tuồng do cụ Ðào Tấn sáng
tác gồm có: Tân Dã Ðồn (tác phẩm đầu tay viết năm 1867), Hậu Sanh Ðàn,
Trầm Hương Các, Cổ Thành, Ngũ Hổ Bình Tây (sửa lại khúc sau do cụ Tú
Nguyễn Diên là thầy cụ Ðào sáng tác). Muốn sửa bổn tuồng Ngũ Hổ này, cụ
Ðào Tấn phải đem lễ vật đến cúng trước bàn thờ của thầy và xin phép sửa
đoạn từ công chúa Thoại Ba đưa Ðịch Thanh lên đường.
Nội dung của mỗi bổn tuồng đều hàm chưa những tâm sự, ý hướng gởi gắm
của tác giả. Ông có ý hướng đả phá bọn nịnh thần Việt gian thời đó là
Nguyễn Thân, Hoàng Cao Khải, theo Pháp để vinh thân phì gia, làm chuyện
gian ác giết hại nòi giống, đồng bào không có chút lương tri. Tuồng Hộ
Sanh (đỡ đẻ), nhân vật Tiết Cương là tượng trưng cho phong trào kháng
Pháp như: Phan Ðình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Mai Xuân Thưởng, Trương Công
Ðịnh. Nhân vật Tiết Nghĩa như những tên: Nguyễn Thân, Hoàng Cao Khải...
Tuồng Trầm Hương Các (nói về Hoàng Phi Hổ đầu Châu), có ý đả phá một
triều đình thối nát không còn ra thể thống quyền lực gì cả... Về mặt văn
chương, những tác phẩm của cụ Ðào Tấn phải nói là trác tuyệt, mỗi câu
hát Khách là những câu đối nên thơ, những câu sắp nam là những bài thơ
ngắn, những lời nói lối cũng là những câu thơ nói lên nhiều tâm sự, ngọn
bút sắc sảo tài tình, do vậy các vị nho sĩ, cử, tú trước kia đều ưa
thích, tán thưởng. Nghệ thuật tuồng lại càng điêu luyện hơn, cách xây
dựng lớp và nhân vật. Chỉ cần 5, 7 nhân vật cũng đủ làm nên một tuồng,
chỉ cần 5, 7 lớp cũng đủ diễn tả một câu chuyện, ví dụ như tuồng Tân Dã
Ðồn, Cổ Thành, Hộ Sanh...
Cụ Ðào Tấn mất năm 1907 (Thành Thái năm thứ 19) để lại sự nuối tiếc cho giới khoa cử bạn bè của cụ lúc đó.
3. Bộ môn hát bội đến nay gần như mai một vì không được nhân dân hiện thời hưởng ứng vì nhiều lý do
Trước tiên nó không đáp ứng được trào lưu tiến hóa theo thời đại của
lớp trẻ. Ðiệu hát quá khác xa với các điệu ca nhạc tân thời du nhập từ
Tây phương. Lối hát Nam xuân, Nam ai, Xuân nữ, Khách, Tẩu mã, Bạch,
Xướng theo điệu kèn, trống, đờn cổ xưa đã trở nên lỗi thời lạc lõng với
tầng lớp nhân dân hiện nay. Vì vậy ít người thưởng thức, nếu tổ chức,
những đêm hát không bán vé được bao nhiêu, không đủ tiền để nuôi nổi
đoàn tuồng. Hiện nay tại Bình định, chính quyền cộng sản tỉnh có thành
lập một đoàn hát bội gọi là Ðoàn tuồng Bình định, nghệ sĩ ăn lương nhà
nước, nhưng cũng không đạt được yêu cầu. Các huyện cũng có các đoàn
nhưng nghệ sĩ không đủ sống phải bỏ đi làm các nghề khác.
Lối hành văn trong các tuồng hát bội thường theo thể biền ngẫu, mỗi câu
mỗi chữ phải đối nhau, dùng nhiều từ Hán Việt và điển tích nên rất khó
hiểu, nhất là những câu hát Khách toàn là chữ Nho nên không phổ biến
được, lớp trẻ bây giờ lại ít hiểu, không hiểu thì không thể nào cảm mộ
ưa thích được. Ví dụ như những câu hát Khách trong tuồng Hộ Sanh Ðàn,
đoạn Võ Tam Tư đề binh đi tìm bắt Tiết Cương:
Thiết mã thiên quần phi tộ tuyết
Hùng binh vạn đội bó như tinh
Lôi đình Giang Hán quân thinh chấn
Tiết thị hưu tư vọng thoát sanh
Tạm dịch:
Ngựa sắt ngàn bầy chạy như tuyết bay
Binh hùng mạnh vạn đội bày bố đông như sao
Bên bờ sông Hán thủy tiếng quân reo vang dội như sấm
Họ Tiết chớ khá nuôi ý đào tẩu.
Hay những câu nói lối của Tiết Cương:
Kinh địa từ tế tảo song linh
Triều binh phút công vi vạn đội.
Tạm dịch:
Từ khi đến đất Kinh đô tế mồ mả cha mẹ
Nay bị binh của triều đình bầy bao vây trùng điệp.
Những câu Xướng, Bạch cũng thế toàn là chữ Nho và điển tích, như Lan Anh nhớ Tiết Cương:
Khéo lôi thôi dương liễu mạch đầu
Càng thánh thót hoàng oanh chi thượng
Mỗi câu là một bài thơ Ðường, thất ngôn tứ tuyệt:
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tướng mạch phong hầu
***Khéo lôi thôi dương liễu mạch đầu
và bài:
Ðả khởi hoàng oanh nhi
Mạc giao chi thượng đề
Ðề thời kinh thiếp mộng
Bất đắc đáo Liêu Tề
*** Càng thánh thót hoàng oanh chi thượng.
Nhiều và còn nhiều lắm những trường hợp như vậy, do đó người bình dân
chỉ cảm theo giọng hát và bộ tịch chứ khó thấu đáo được lời tuồng, nên
sự đam mê thích thú cũng giảm đi rất nhiều. Lối hát ứ ư, ứ ự cũng đã quá
lỗi thời không còn thích hợp với giới trẻ, giới thanh niên nữa.
4. Hát bội là môn nghệ thuật đi sâu vào lòng dân Bình định nói riêng và
cho cả miền Trung nói chung từ Quảng trị đến Phan rang vào những năm
1975 trở về trước. Hát bội ở miền Nam cũng có nhưng thể điệu rất ngơi
chậm và kéo dài, có lẽ ảnh hưởng của người Hoa.
Ở Bình định thường có câu ca dao nói rõ sự đam mê của người dân về môn hát bội:
Hát bội hành tội người ta
Ðàn ông bỏ vợ, đàn bà bỏ con
Ưa thích mê xem hát bội đến nỗi đàn ông mới cưới vợ nghe có đám hát
cũng để vợ ở nhà một mình, đàn bà có con nhỏ không ở nhà ru con ngủ. Mỗi
lần ở làng xã có chuyện cúng tế đình miếu thần hoàng đều phải mời đoàn
hát bội đến hát lễ cúng thần linh, thường chọn bổn tuồng có nhân vật
Quan Công tức ông Quan Vũ - Quan Vân Trường trong truyện Tam Quốc, vì
quan niệm cho rằng ông đã hiển thánh sau khi tử trận, gương trung liệt
nghĩa khí của ông đã sáng ngời với ba đức tính: "Bần tiện bất năng di,
Phú quí bất năng dâm, Uy vũ bất năng khuất", mặc dù Tào Tháo trăm phương
ngàn kế dụ dỗ, uy hiếp. Vì vậy các tuồng thường được trình diễn như:
"Cổ Thành": Quan công phò nhị tẩu quá ngũ quan trảm lục tướng (qua 5 ải
chém 6 tướng) đoàn tụ với Trương Phi ở Cổ thành; "Hoa Dung Ðạo": Quan
Công tha Tào Tháo ở Hoa dung; hoặc "Tam Anh Chiến Lữ Bố" (Lưu, Quan,
Trương đánh nhau với Lữ Bố), hoặc "Quan Công phó hội với Châu Du". Lấy
hát bội để tế lễ thần linh như một món lễ vật quí giá dâng cầu thần cho
mưa thuận gió hoà, dân cư lạc nghiệp, may mắn thịnh vượng, người ta gọi
là hát "thứ lễ". Sau đó các chức sắc trong làng thường chọn các tuồng
hát có tính cách tiểu thuyết, tình cảm như: Ngũ Hổ Bình Tây, Hộ Sanh,
Tiết Giao đoạt ngọc, Mạnh Lệ Quân v.v...
Ở chùa chiền
cũng có tổ chức hát bội, nhất là vào dịp rằm tháng bảy lễ Vu lan, trong
dân gian thường có câu: "Trong chay ngoài bội" trong chùa làm lễ cúng
chẩn, bên ngoài hát bội, thường hát các tuồng có điển tích liên quan đến
đạo Phật như: Mục Liên Thanh Ðề, Quan Âm Thị Kính, Phạm Công Cúc Hoa
v.v...
Mỗi lần có đám hát bội là mỗi lần trai gái trong
làng có dịp gặp gỡ để tâm sự, trò chuyện, tán tỉnh, có cơ hội để trao
đổi tình cảm. Do vậy mà dân chúng già trẻ đều ưa thích hát bội. Người
nào hiểu được kỹ thuật, điệu nghệ, các thể loại của hát bội đều đam mê
về tiếng kèn, nhịp trống, điệu đàn cò (còn gọi là đàn nhị), bởi nó diễn
tả tình cảm: vui, giận, buồn, sợ, thương, ghét, ưa muốn (hỉ, nộ, ai, cụ,
ái, ố, dục) của mỗi nhân vật trong truyện tuồng mỗi vẻ khác nhau, theo
tình tiết khác nhau, rất tế nhị. Lúc hùng tráng thì hát theo thể: Bạch,
xướng, tẩu mã, giao ban, nói lối; lúc vui vẻ, sung sướng thì hát theo
điệu: Nam xuân, nói lối, hát bài nhịp một, nhịp ba; lúc đau buồn thì hát
theo điệu: Khách, nói lối. Mỗi thể loại điệu kèn, đờn, nhịp trống ăn
khớp với giọng hát, câu ca, dễ làm cho người xem phải cảm động say mê.
Mỗi lần có đám hát nghe tiếng trống kèn thúc giục, nhất là tiếng trống
chầu đổ liên hồi làm náo nức rộn rã lòng người mà không đi được, chỉ
tiếc là đến nay nó không còn thích hợp với tầng lớp trẻ nữa. Tân nhạc,
phim ảnh đã thay thế làm môn giải trí thịnh hành hiện đại, nó dễ hiểu và
dễ làm rung cảm lòng người, nên lần hồi môn hát bội bị thất truyền mai
một. Hát bội giờ đã như một hình bóng cổ xưa, quê mùa đối với thanh
thiếu niên Việt nam ngày nay, ngay cả Cải lương cũng thế.
VÕ NGỌC UYỂN
Nguon: http://giaodiemonline.com/2011/12/hatboi.htm