Chùa Bửu Minh Gia Lai - Mobile
BẢO TỒN NGHỆ THUẬT CỔ CA HÁT BỘI PHẢI LÀ MỘT QUYẾT TÂM
Trịnh Thanh Thủy
06/12/2011 19:02 (GMT+7)

. Tiếng chiêng trống, những bộ mặt dữ tợn đen xì, đỏ gay của mấy ông tướng cùng cờ quạt phất phới gắn đầy người, làm con bé nhát gan như tôi vừa thấy là khóc thét lên. Lớn lên chút, Hát Bội chỉ còn là hình ảnh những bộ trang phục sặc sỡ treo tòn teng gần cửa sổ căn gác ngôi đình đối diện rạp hát Văn Cầm, gần nhà tôi. Thời tiểu học, ngày hai buổi đi về trường Võ Tánh trên đường Võ Duy Nguy, tôi hay đi ngang qua ngôi đình có gánh Hát Bội thường xuyên diễn ở đấy. Tôi thường say mê nhìn lên khung cửa đó, nơi có các đào kép hát ngồi trang điểm hay vẽ mặt cho nhau. Phấn son trên gương mặt các cô đào trong tuồng hát ngày nào một phai mờ theo bụi thời gian đến khi tôi ra tới hải ngoại, môn nghệ thuật cổ truyền này chỉ còn trong trí tôi là những tiếng “ư ư ử ử” đầy ấn tượng.

Lần du lịch Trung Quốc, tôi được xem những nghệ nhân Trung Hoa trình diễn Beijing Opera thật hay và đầy tính nghệ thuật khiến tôi liên tưởng tới nghệ thuật Hát Bội của người mình. Tôi chợt nhận ra Hát Bội là một ngành nghệ thuật sân khấu trình diễn cao và có nhiều nét đẹp cổ xưa mà ngày nay người ta không nhận ra hoặc đã bị mai một vì nó không còn hợp thời nữa. Nhất là nghệ thuật vẽ mặt của Hát Bội, nó mang một nét đặc thù mà những nghệ thuật cổ ca khác không có. Biết khéo léo ứng dụng những đường nét riêng biệt và khác nhau của màu sắc để miêu tả trạng thái, vai trò của nhân vật là những biểu trưng căn bản của nghệ thuật Hát Bội.

Hát Bội được du nhập qua Việt Nam vào thế kỷ thứ 13 nên nghệ thuật hát diễn, trang phục, tuồng tích, đều tương tợ như Kinh Kịch là loại kịch của Thanh triều tại kinh thành Bắc Kinh, tức "Bắc Kinh kịch nghệ".  Hát Bội còn được gọi là Hát Bộ. "Bộ" đây có nghĩa là diễn xuất của nghệ sĩ đều phải phân đúng từng bộ diễn, "diễn Bộ", "ra Bộ".

Trước đây hàng trăm năm đã xảy ra việc tranh cãi về từ “Hát Bộ” hay “Hát Bội” và tạo nên nhiều cuộc bút chiến lý thú. Người bênh vực cho từ “Hát Bội” lý luận rằng Bội có nghĩa là bội phần. Hát Bội có nghĩa là hát có quần áo đàng hoàng tử tế, có mũ mão, cân đai, đeo thêm cái này, cái nọ. Các vở tuồng Hát Bội chỉ lấy nét chính của một tuồng tích mà dựng lớp. Một câu chuyện dài như Ngũ Hổ Bình Tây, Phản Ðường, mà chỉ lấy khoảng 10 lớp diễn là đủ cả câu chuyện nên gọi là xếp lại, gấp lại, nhân lên mà gọi là Bội. Có người còn cho rằng chữ Bội là bội bạc, các đào kép hát thường lãng mạn, có cuộc sống thiếu đạo đức hay bội phản về tình duyên, nên gọi là Hát Bội

Ca dao có câu “có chồng say như trong chay ngoài bội, ngó vô nhà như hội Tần Vương” hay “Trồng trầu trồng lộn dây tiêu, con theo Hát Bội mẹ liều con hư”

Nghệ thuật vẽ mặt của Hát Bội là một tinh túy xuất phát từ Kinh Kịch và có từ lâu đời lắm rồi. Có lẽ từ triều đại nhà Tùy và Đường ngày trước.  Lúc đó trong các buổi tế lễ người ta hay dùng những mặt nạ trông rất dữ tợn để xua đuổi ma quỷ vì người ta tin rằng loài quỷ dữ chỉ sợ những gì hung tợn hơn chúng. Đến đời Minh, nghệ thuật sân khấu và trang điểm mặt cho nghệ sĩ phát triển và cải thiện khiến nó trở thành những quy ước chặt chẽ. Cuối cùng đến đời nhà Thanh thì nghệ thuật hoá trang cho các vai trò của nghệ nhân đã được hoàn chỉnh.

Trang điểm khuôn mặt cho một nghệ sĩ trước khi lên sân khấu là một nghệ thuật. Vẽ, pha màu cũng như áp dụng màu sắc cho đúng vai diễn của nghệ nhân đòi hỏi người vẽ mặt phải có một nghệ thuật chuyên môn cao và điêu luyện. Tôi từng được ngồi xem nghệ sĩ Trần Tường Nguyên trang điểm và vẽ mặt cho các học sinh lớp Hát Bội do cô Ngọc Bày hướng dẫn và thấy được công việc ấy không phải dễ làm, nhất là đối với các em thiếu nhi. Các em vì tính năng động mà ngồi, đứng không yên, lúc lắc liên tục. Mất khoảng nửa tiếng mới vẽ xong khuôn mặt tướng tuyệt đẹp cho một em. Vẽ vừa xong, em đã chạy tới chạy lui, khuôn mặt nhễ nhại đầy mồ hôi, rồi em đưa tay áo lên quẹt, phấn màu phai tùm lum, thế lại phải vẽ và trang điểm lần nữa.

Trong nghệ thuật Hát Bội hay Hát Tuồng, những màu sắc chính được trang điểm trên mặt thường để phân biệt tính tình, nhân sinh quan cũng như đạo đức của một nhân vật. Sắc mặt đỏ biểu hiện cho sự can đảm, tận tụy, ngay thẳng. Đen tượng trưng cho người hung tợn, mạnh mẽ. Vàng là tham vọng, mạnh mẽ, trầm tính. Xanh là trung thành, mạnh mẽ, sắc sảo. Trắng có thể gọi là độc ác, lừa lọc, đa nghi, xảo trá. Tím dành cho trầm tĩnh, liêm chính, còn Bạc và Vàng(Gold) cho thần linh và thượng đế. Do những qui định của màu sắc mà người xem biết mình đang đối diện những nhân vật nào trên sân khấu mà không phải đoán hay nghĩ nhiều. Kẻ trung, người nịnh, ai minh chánh, kẻ gian tà đều hiện rõ dưới ánh đèn sân khấu.

Dưới con mắt người Tây Phương hay thế hệ của chúng ta nhìn vào nghệ thuật Hát Bội, có lẽ sẽ cho rằng tại sao lại có một ngành nghệ thuật sân khấu cổ quái, ồn ào và kỹ thuật ca hát có nhiều tiếng hò hét thế kia. Nhưng nếu chúng ta đi sâu vào lịch sử của ngành cổ ca này, ta sẽ hiểu thấu lý lẽ nói trên. Ngày xưa, Hát Bội được trình diễn ở các nơi công cộng như chợ búa hay miễu, đình là những nơi ồn ào, hỗn loạn nên phải có những âm thanh lớn, rền rĩ hơn mới lôi cuốn được sự chú ý của người xem. Y trang cũng vậy, màu sắc phải đối chọi để bắt mắt người nhìn dẫu cho nó trông sặc sỡ, diêm dúa. Nghệ thuật trang điểm, không những phải thật lộng lẫy mà còn phải độc đáo cho mỗi nhân vật, mỗi vai trò. Mỗi cử chỉ, động tác của diễn viên đều áp dụng nguyên tắc nói trên và theo một quy ước sân sấu được bố trí và định sẵn.

Tuồng tích phần lớn là những kịch bản phóng tác có tính cách kinh điển, giáo dục quần chúng của Trung Quốc trích trong các pho truyện như Tam Quốc Chí, Ngũ Hổ Bình Tâỵ…v..v… Phần lớn nội dung nói lên lòng trung, hiếu, tiết, nghĩa và tinh thần tôn sư trọng đạo.

Nghệ thuật sân khấu này đòi hỏi kiến thức lãnh hội của người xem lẫn người diễn. Vì sự khiếm khuyết của cảnh trí, phương tiện cũng như vật dụng trên sân khấu mà những biểu tượng được thay thế cho vật thiệt đã ra đời và được giải thích cho người xem để họ thuộc nằm lòng. Tỷ như khi một vị tướng cầm cây roi có tua tủa những sợi vải hay tua xanh đỏ, khán giả phải tưởng tượng cái roi ấy chính là con ngựa của vị tướng đó.

Ở miền nam Việt Nam, sau 1975, các trường dạy về nghệ thuật trong đó gồm có hát bội, cải lương , kịch nói, cổ ca, đạo diễn vẫn được duy trì. Ngay tại các địa phương nào còn ưa chuộng Hát Bội, các đoàn hát bội thành phố hay được mời về diễn trước để tạ ơn thần thánh sau để dân chúng xem.

Tôi có duyên gặp gỡ và tiếp xúc với Nghệ sĩ Ngọc Bầy. Cô tốt nghiệp bộ môn Hát Bội khóa đầu tiên năm 1960-1964 tại Trường Quốc Gia Âm Nhạc Saigon, dưới sự dìu dắt của các nghệ sĩ Võ Văn Tài, Dương Ngọc Ðắc (Ba Ðắc), Huỳnh Hữu Hạnh (Hữu Thoại) và Nguyễn Thị Nhỏ. Sau khi tốt nghiệp, nghệ sĩ Ngọc Bày dạy ngay tại Trường Quốc Gia Âm Nhạc Saigon. Sau năm 80 bà về làm tại đoàn nghệ thuật thành phố và đã đào tạo được nhiều thế hệ nghệ sĩ.

Ðịnh cư tại Hoa Kỳ từ năm 1992, nghệ sĩ Ngọc Bày đã trình diễn tại nhiều sinh hoạt cộng đồng và tại một số đại học như UCLA và San Diego State University. Khi qua Mỹ cô mang theo một số tài liệu giảng dạy và sách vở cùng một cái trống con với ước vọng mở các lớp dạy về Hát Bội, hầu có thể gìn giữ được ngành cổ ca này. Nhưng khi hỏi hay nhắc tới Hát Bội, khán giả hải ngoại phần lớn không có kiến thức hay hiểu biết gì về môn nghệ thuật này, nên cô bỏ ý định trên. Ngày ấy, giáo sư Nghiêm Phú Phi nguyên cựu giám đốc trường quốc gia âm nhạc Sài Gòn trước năm 75 đã ra công quy tụ các cựu diễn viên, các giáo sư âm nhạc và thành lập một hội ái hữu trường Quốc Gia Âm Nhạc hải ngoại. Mỗi khi có dịp họp mặt thân hữu hay hội hè, hội thường đi diễn ở các nơi công cộng, nhà hàng hay các hội trường, hội quán. Năm 2003, một vị giáo sư Nhật dạy ở đại học UCLA về văn hoá dân tộc Đông Nam Á, tình cờ biết cô và mời cô đến trường hát và diễn lại một số tuồng tích để giới thiệu những nét văn hoá về nghệ thuật cổ ca của Việt Nam.

Cô được phỏng vấn và hỏi về lối giáo dục diễn viên hát bội được dạy hát và diễn xuất như thế nào. Cô trả lời rằng trong giai đoạn phôi thai, các giáo sư giảng dạy  như cô Hai Nhỏ, ông Phú Thoại, Sáu Vững trong ban Vân Hạc, phải dùng một phương pháp cổ truyền là đời trước truyền miệng, đời sau học thuộc lòng và cứ thế làm theo. Học sinh học một lớp tuồng Thoại Ba công Chúa hay Lưu Kim Đính, dạy tới đâu học tới đó, không biết cách dạy ca riêng, vũ đạo riêng. Và cô Ba Đắc, cô Hai Nhỏ, mỗi người dạy một kiểu, mỗi cô có lối luyến láy riêng. Vì không có phương pháp chép nhạc theo Ký âm pháp, các học viên mạnh ai nấy hoặc thuộc lòng hoặc ghi chép theo lối của mình. Để nhớ các điệu hát lên xuống cô phải dùng cái mũi tên với vị thế lên, xuống hoặc nằm ngang vẽ thêm vào cho dễ nhớ.

Sau này, cô viết thành giáo trình hay giáo án rõ ràng để dạy. Khi ấy Cô Ngọc Khanh là con cô Ba Út và một học trò đã ra trường phụ cô viết giáo trình. Cô có ước muốn chép nhạc các ca điệu cổ dựa trên ký âm pháp theo một nền tảng quy định căn bản như bên tân nhạc. Tuy nhiên ước muốn của cô không phải dễ thực hiện vì cô chỉ là một nghệ nhân diễn và dạy, còn công việc kia đòi hỏi một kỹ thuật thuộc về các nghiên cứu nên cần người chuyên môn hơn.

Khi còn ở trường Sư Phạm, học trò các lớp khác như Cải Lương, Kịch Nói hay chạy qua trêu chọc học trò lớp Hát Bội bằng những tiếng.. ư .. ư  …a ..a…Tôi có hỏi cô tại sao lại có tiếng ư ư như thế trong lối hát. Cô trả lời rằng, ngày xưa trong các môn nghệ thuật, mỗi môn có lối ngân riêng. Hát Chèo của người Bắc chữ i í i i ì í i được dùng để ngân. Hát Bội dùng chữ ư, còn Cải Lương thì chữ ơ. Sân khấu hát bội lưu động thời đó không có màn che gió, không có hệ thống khuếch đại âm thanh mà khán giả xem đông vì chỉ có Hát Bội là ngành sân khấu duy nhất. Do đó khi hát gió bạt tiếng ca, khiến lời ca thành không rõ chữ, diễn viên muốn khán giả đứng xa nghe được phải ngân chữ ư cho dài, cho rõ. Tỷ như chữ “phản mã”, diễn viên sẽ phát âm là “phản ư ư ư mã” người đứng xa sẽ nghe dễ dàng hơn. Tuy nhiên khi gió tạt tiếng ca chỉ còn sót lại âm “ư .. ư “ trong không khí mà thôi. Ngày xưa người  hát phải lấy hơi bụng. để có thể hát lớn, la to, có khi bể hơi, bể tiếng, bể thanh đới. Bây giờ kỹ thuật tân tiến, diễn viên biết cách lấy hơi, lại có nhạc và âm thanh trợ giúp khiến người hát ca dễ và hay hơn xưa.

Năm 2009, hội Kenneth Foundation ngẫu nhiên xem được chương trình Hát Bội của cô trên mạng trường UCLA và cơ hội đến khi họ tình nguyện yểm trợ tài chánh cho cô được mở lớp giảng dạy hát bội. Vì thời gian eo hẹp, nên cô phải đổi quy trình giảng dạy, nghĩa là không dạy từ bước một, mà đi thẳng vào việc diễn xuất nên khi xem người rành về ngành này có thể thấy nó không chính xác từ nguyên thủy. Vì bộ môn này khó học nên những người đã có căn bản từ các bộ môn khác như Cải Lương mà học môn này dễ bị ảnh hưởng Cải Lương vào nên khi hát dễ bị lai đi. Còn các em nhỏ khi học và diễn thường chính xác hơn vì chúng như tờ giấy trắng học làm sao, hát ra làm vậy. Nó lại có tính ước lệ, nên học trò phải học tất cả các quy ước được đặt ra mà diễn, hát, vũ đạo cho đúng.

Cô kể lại giai đoạn lớp học mới thành lập, khi dạy và được mời đi diễn, lớp không có đầy đủ y trang. Khi mới qua Hoa Kỳ, cô chỉ mang được một bộ đồ văn và bộ đồ võ, do đó cô phải mượn những y trang cải lương của ông Lương Văn Tỷ(giám đốc đài truyền hình, truyền thanh) lúc ấy chế biến lại để mặc tạm. Chúng trông từa tựa y trang hát bội, ngộ biến tùng quyền, cô dùng vải đắp miếng này ở trên, miếng kia ở dưới, gắn tới lui sao cho giông giống thì thôi. Ở hải ngoại ngày nay, khi diễn một tiểu phẩm hay tuồng tích Hát Bội cần thuyết minh và dẫn chứng. Thí dụ phải cắt nghĩa lối lên sân khấu có hai cửa buồng, một đi ra gọi là cửa buồng sanh và một đi vào gọi là cửa buồng tử. Diễn viên khi ra sân khấu phải ra ở cửa buồng sanh và những người thủ vai trung thần khi chiến thắng trở về phải đi vào cửa buồng sanh. Cửa buồng tử được xử dụng cho tất cả mọi người để đi trở vào và cũng dành cho người đi đánh giặc khi chết cũng chạy vào đây. Các buồng sanh, tử được chia làm 4 góc, 2 góc thượng và 2 góc hạ.

Khi diễn viên đi một vòng trên sân khấu, khán giả phải tưởng tượng người đó vừa qua sông. Khi họ hát câu văn chim kêu vượn hú, có cá, có cầu và những câu miêu tả cảnh vật người xem sẽ tưởng tượng ra các cảnh vật trước mắt như mưa bay, liễu rũ …v…v…khán giả phải biết đó là cảnh sông núi mà liên tưởng tới.

Phần thuyết minh sẽ dẫn giải cho người xem biết diễn viên cỡi ngựa như thế nào. leo lên bàn đạp, nắm cương ngựa, quật roi ra sao. Cây roi tượng trưng cho con ngựa và rất đa dụng theo vị trí của nó. Lúc nó ở trước người diễn, nó tượng trưng cho đầu ngựa, khi ở sau nó là đuôi ngựa. Nếu được giơ thẳng nó là roi ngựa, hay bị quật xuống chân diễn viên nó thành chân ngựa. Cây roi được quất liên tục tức diễn viên đang phi ngựa.

Tất cả những biểu tượng này đã khích thích và làm giàu óc tưởng tượng của khán giả và nó được dùng chỉ vì ngày xưa kỹ thuật sân khấu còn sơ khai. Lớp người thưởng ngoạn cũ đã có kiến thức về cách diễn rồi nên họ tự động thông hiểu các điệu bộ nói trên, nhưng lớp khán giả mới sau này cần phải được giải thích rõ ràng thì nghệ thuật cổ ca này mới nổi lên được.

Cái khó nhất của Hát Bội là không còn được phổ biến và không có giới thưởng ngoạn. Tuy nó là một tinh túy văn hoá dân tộc nhưng nó bị xem là không hợp thời nữa.

Trước tiên nó không đáp ứng được trào lưu tiến hóa theo thời đại của lớp trẻ. Ðiệu hát quá khác xa với các điệu ca nhạc tân thời du nhập từ Tây phương. Lối hát Nam xuân, Nam ai, Xuân nữ, Khách, Tẩu mã, Bạch, Xướng theo điệu kèn, trống, đờn cổ xưa đã trở nên lỗi thời lạc lõng với thời đại. Vì vậy ít người thưởng thức, nếu tổ chức, những đêm hát không bán vé được bao nhiêu, không đủ tiền để nuôi nổi đoàn tuồng. Hiện nay tại Bình định, chính quyền có thành lập một đoàn hát bội gọi là Ðoàn tuồng Bình định, nghệ sĩ ăn lương nhà nước, nhưng cũng không đạt được yêu cầu. Các huyện cũng có các đoàn nhưng nghệ sĩ không đủ sống phải bỏ đi làm các nghề khác.

Lối hành văn trong các tuồng Hát Bội thường theo thể biền ngẫu, mỗi câu mỗi chữ phải đối nhau, dùng nhiều từ Hán Việt và điển tích nên rất khó hiểu, nhất là những câu hát Khách toàn là chữ Nho nên không phổ biến được, lớp trẻ bây giờ lại ít hiểu, không hiểu thì không thể nào cảm nhận và ưa thích được.

Mối ưu tư của những người còn ưa thích nghệ thuật cổ ca là làm sao duy trì, sống lại và phát triển các ngành nghệ thuật này.

Theo giáo sư Ngọc Bày, ở hải ngoại, muốn phục hưng hay gìn giữ, nó đòi hỏi rất nhiều nhiệt tâm, công sức của nhiều người. Nó cần phải được canh tân, hiện đại và Việt ngữ hoá cổ ca. Đồng thời cần được sự hỗ trợ của truyền thông, cũng như các đài truyền hình. Ngoài ra còn cần phải được giới thiệu vào các hệ thống học đường, đại học, hay trung tâm Việt ngữ, như một bộ môn văn hoá nghệ thuật quốc tế. Hát Bội có thể được giới thiệu như một trong hai nghệ thuật cổ xưa của Việt Nam là Hát Bội và Hát Chèo. Ngoài ra nó cần có một trụ sở để diễn cho tất cả các tầng lớp khán giả từ trẻ tới già. Tỷ như  ở Las Vegas, Nevada có một sân khấu Broadway chuyên diễn Beijing Opera thường xuyên, giá vé tới 200 đô một xuất mà người xem vẫn coi đông dù phải đặt chỗ trước.  Việc quan trọng hàng đầu là tài chánh và việc nâng đỡ hay tài trợ của chính phủ hay các tổ chức là điều cần thiết. Con đường phục hồi ấy thật là chông gai nhưng nó là một ước mơ mà giáo sư Ngọc Bày và những người ủng hộ cô đang thực hiện được. Điều quan trọng nhất là sự quyết tâm cao đẹp mà cô cố gắng gìn giữ để bảo tồn Hát Bội từ bấy lâu nay.

 

TRỊNH THANH THỦY
 
    
    

 

 

 

 

TẢN MẠN VỀ HÁT BỘI BÌNH ÐỊNH

 

Võ Ngọc Uyển
 

 

          Nói về quê hương Bình định, người ta thường nghĩ ngay đến các anh hùng liệt sĩ đã làm vang danh rạng rỡ trong lịch sử Việt nam: Quang Trung Nguyễn Huệ, Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng, Bùi thị Xuân, Ngô tùng Châu, Mai Xuân Thưởng, Tăng Bạt Hổ v.v... Nơi đó cũng là cái nôi của Võ thuật miền Trung được diễn tả đấy đủ trong câu ca dao:

Ai về Bình định mà coi
Con gái Bình định cầm roi đi quyền

          Và cũng là nơi phổ biến thịnh hành tuồng Hát bội.

          1.- Trước tiên, danh từ Hát bội và nghệ thuật Tuồng có từ thời nhà Trần nước ta (1226-1399). Khi quân Nguyên Mông sang xâm lược với ba trận đánh khốc liệt, Hưng Ðạo vương Trần Quốc Tuấn bắt được ông Lý Nguyên Cát người Trung hoa, ông này có tài về hát tuồng diễn kịch, giao cho tướng Trần Nhật Duật tổ chức các đội hát tuồng để ủy lạo, giúp vui cho tướng sĩ. Danh từ Hát bội có từ đó, vì cách tổ chức trình diễn theo lối bát điệu (tám mặt), hình thức tám cái sân khấu đâu lưng nhau, quay mặt ra tám hướng theo hình bát quái: Tây Bắc, chánh Bắc, Ðông bắc, chánh Ðông, Ðông Nam, chánh Nam, Tây Nam, chánh Tây. (Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Ðoài). Một đội tuồng gồm tám đoàn nhỏ, rất đông đào kép, nghệ sĩ. Tám sân khấu đều hát chung một tuồng, cùng một lúc. Hướng Tây Bắc dành cho vua, gia đình của vua và các quan đại thần thưởng lãm vì hướng này thuộc Càn tượng trưng cho Trời (Thiên tử: vua là con của Trời), các cửa sân khấu khác dành cho các hạng tùy theo thứ bậc, phẩm hàm, của các quan trong triều kể cả gia đình thứ dân, do vậy người nào cũng được xem ở bất cứ hướng nào, nên người ta gọi là hát bội. Bội là gấp lên, nhân lên, như một tấm gương phản chiếu hình ảnh khắp mọi nơi. Ví dụ: hát tuồng Cổ thành (Quan Công phò nhị tẩu) thì khi đến lớp tuồng Trương Liên lên giáo đầu (khổ đầu) thì cả tám sân khấu đều có nhân vật Trương Liêu cùng vẽ đúng một khuôn mặt, quần áo, mũ hia đều giống nhau.

          Mãi về sau này, vì hoàn cảnh xã hội, vì kinh tế, người ta giản lược đi, ở triều đình chỉ còn hát tứ diện (4 mặt sân khấu) và trong dân gian, các gia đình có thế lực hay cự phú, người ta tổ chức hát lưỡng diện (hai mặt sân khấu) mới đủ khả năng kêu gọi đào kép qui tụ và tiền bạc để nuôi ăn cho nghệ sĩ (con hát). Ví dụ: Năm 1930, ông chánh tổng Ky (cha của ông Nguyễn An Thạch, bà con của anh Nguyễn An Phong) tổ chức hát bôi lưỡng diện ở thôn Càn rang xã Cát thắng, Phù cát. Năm 1932, cụ tuần Bửu Xuyên (tức cụ Ðào Phan Duân ở thôn Biểu chánh, xã Phước hưng, Tuy phước) cũng tổ chức hát bội có hai sân khấu.

          Do vậy mà ta có thể nói là hát bội chứ không phải hát bộ được. Việc tranh cãi về từ "Hát Bội" và "Hát Bộ" đã xảy ra nhiều lần, nhất là trước 1975. Có nhiều người không rõ nguyên do và lý luận theo mỗi cách khác nhau đã biện hộ cho ý kiến của mình. Người chấp nhận chữ BỘI thì cho rằng vì các vở tuồng hát bội chỉ lấy nét chính của một tuồng tích mà dựng lớp. Một câu chuyện dài như Ngũ Hổ Bình Tây, Phản Ðường, mà chỉ lấy khoảng 10 lớp diễn là đủ cả câu chuyện nên gọi là xếp lại, gấp lại, nhân lên mà gọi là Bội. Có người còn cho rằng chữ Bội là bội bạc, các đào kép hát thường lãng mạn, có cuộc sống thiếu đạo đức hay bội phản về tình duyên, nên gọi là HÁT BỘI. Người cho chữ BỘ là đúng thì quan niệm rằng hát bộ là phải có bộ tịch, múa may, chỉ trỏ cho đúng với ý nghĩa của câu tuồng nên gọi là HÁT BỘ, hoặc cho rằng khi cụ Ðào Tấn còn làm quan, được vua cho lập bộ Ðình để trùng hưng lại môn hát bộ mà cho là Hát Bộ chứ không phải Bội. Cả hai trường hợp lý luận như vậy thì ta thấy trong nghệ thuật cải lương cũng có. Tuồng cải lương cũng diễn tả những câu chuyện Tàu, cũng lấy lớp ngắn lại và diễn xuất điệu bộ rất công phu, nhất là cải lương Hồ quảng, sao người ta không gọi là Hát Bội hay Hát Bộ?

          2.- Nguyên nhân hát bội thịnh hành, phổ biến rộng rãi ở miền Trung và nhất là Bình định.

          Trước nhất là ông Ðào Duy Từ được gọi là ông tổ hát bội đầu tiên của Bình định. Ai cũng biết ông Ðào Duy Từ là một người có tài quân sự điều binh khiển tướng như Khổng Minh Gia Cát Lượng, ông đã tự ví mình như Gia Cát Võ Hầu nên sáng tác tập thơ "Ngọa Long Cương vãn". Ông là người tài kiêm văn võ, rể của tể tướng Trần Ðức Hoà, cánh tay mặt của Chúa Hiền ở Ðàng Trong, Ông được phong chức Táng tương Quân vụ, người dân thường gọi ông là "Nội Táng hầu", có câu ca dao:

Thương em, anh cũng muốn vô

Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam giang

Phá Tam giang ngày nay đã cạn

Truông nhà Hồ Nội táng giới nghiêm...

          Ông đã có công đắp lũy gọi là Lũy Thầy (chữ thầy là chỉ ông Ðào Duy Từ) để chống quân chúa Trịnh ở miền Bắc, nhưng ông cũng là người rất sành về ca nhạc, thi thơ, ông là con của một nữ đào hát nổi tiếng ở kinh thành Thăng long, học giỏi, tài cao nhưng không được đi thi vì là con của đào hát thuộc tầng lớp "xướng ca vô loại", do vậy, ông đã bỏ vào Nam thi thố tài năng sở học của mình và được chúa Nguyễn trọng dụng. Ông Ðào DuyTừ đã đặt các tuồng hát bội và tổ chức những đoàn hát. Với các vở tuồng rất hay đến ngày nay vẫn còn lưu truyền: San Hậu (Ông Ðình, Ðổng Kim Lân, Khương Ninh Tá), Sơn Hà Xã Tắc, nội dung đều mang ý nghĩa phục thù, rửa hận: Nịnh thần soán đoạt ngôi vua, trung thần phò ấu chúa trốn chạy ra miền biên cương tìm căn cứ gầy dựng lại binh lực, chiêu hiền đãi sĩ để diệt chế độ do nịnh thần thống trị, cũng giống như trường hợp Nguyễn Hoàng vào Nam muốn diệt Trịnh phò Lê. Việc tổ chức hát tuồng, hát bội trở thành lợi khí chính trị vận động đồng bào miền Nam gia nhập quân đội chống lại miền Bắc, vừa giải trí giúp vui cho quân sĩ lúc xa nhà.

Ta sẽ thấy tài nghệ văn chương của ông Ðào Duy Từ ở đoạn văn hát Nam Ai sau đây của nhân vật Ðổng Kim Lân trong lúc trở về Sơn Hậu:

(Tán): Xếp ngọn ngũ lui khỏi Tạ Thành
(Chi nữa) Lên Cật Ký trông chừng San Hậu
Nam: San Hậu phản phản lối cũ
Ðoái Tạ thành (còn đọc là thiềng) lụy đổ dường mưa
Ngọn cờ, tiếng trống bơ thờ
(Mẹ, mẹ ơi, con biết liệu làm sao đây!)
Thảo thân, ngay chúa sững sờ hai vai
(Hò, họ)
Bước đường mai, phong ai chi sá
San Hậu thành đoái đã gần đây.

          Tâm sự của một người tướng tài như Ðổng Kim Lân, bị Tạ Ôn Ðình bắt mẹ treo trên đầu thành, bảo Kim Lân phải đầu hàng, nỗi lòng buồn như thất trận của một vị tướng: "Ngọn cờ, tiếng trống bơ thờ" thật là não nề thê thiết. Nều đầu hàng địch là bất trung mà không đầu là bất hiếu: "Thảo thân, ngay chúa, sững sờ hai vai". Chữ "sững sờ" thật là đắc địa không còn chữ nào thế được!

          Hiện nay tại Bình định, họ Trần và họ Ðào còn dòng dõi rải rác ở các huyện Phù cát, An nhơn, Tuy phước.

          Và giữa triều Nguyễn, Bình định lại sản sinh được một kịch tác gia về tuồng hát bội là cụ Ðào Tấn ở làng Vinh thạnh xã Phước lộc, huyện Tuy phước. Ông sinh năm 1845, đậu cử nhân khoa Ðinh Mão (1867) tại trường thi Bình định. Năm 1871 được gọi ra Huế làm Hiệu thư. Thời kỳ "bốn tháng ba vua" ông bỏ về nhà tu ở chùa Linh Phong (chùa Ông Núi). Tu được ba năm thì được gọi ra làm quan, sau thăng dần làm Tổng đốc Quảng nam, Tổng đốc Nghệ an, sau cùng là Thượng thư bộ Công, thụ Hàm Vinh Quang Tử, một trong tứ trụ đại thần, Cơ mật viện, Ðông các điện Ðại học sĩ. Ông cũng là một nhà nghệ sĩ tài hoa, rất sành về kỹ thuật hát bội, đam mê nó đến nỗi khi làm Tổng đốc Nghệ an, đem theo người bạn trong làng, một nghệ sĩ hát bội, là ông đội Hiệp, thành lập một đoàn hát vừa là lính hầu, lính lệ, vừa là nghệ sĩ của đoàn hát, các người đó cũng có phẩm trật như ông Bát Phàn người làng Phú phong, sau này về hưu, lập đoàn hát bội tại Phú phong rất nổi tiếng. Ông Bát Phàn (bát phẩm) là thầy ông Cửu Vỵ ở Bình nghi, ông Bầu Ba ở Nhơn hoà. Vì vậy ở Bình định mãi về sau này từ năm 1920 đến năm 1945 nổi lên nhiều gánh hát bội rất hay, có nhiều người được phong làm Chánh ca ở tỉnh và ở huyện như: Chánh ca Ðông, chánh ca Ghình, chánh ca Ðựng...

          Các tuồng do cụ Ðào Tấn sáng tác gồm có: Tân Dã Ðồn (tác phẩm đầu tay viết năm 1867), Hậu Sanh Ðàn, Trầm Hương Các, Cổ Thành, Ngũ Hổ Bình Tây (sửa lại khúc sau do cụ Tú Nguyễn Diên là thầy cụ Ðào sáng tác). Muốn sửa bổn tuồng Ngũ Hổ này, cụ Ðào Tấn phải đem lễ vật đến cúng trước bàn thờ của thầy và xin phép sửa đoạn từ công chúa Thoại Ba đưa Ðịch Thanh lên đường.

          Nội dung của mỗi bổn tuồng đều hàm chưa những tâm sự, ý hướng gởi gắm của tác giả. Ông có ý hướng đả phá bọn nịnh thần Việt gian thời đó là Nguyễn Thân, Hoàng Cao Khải, theo Pháp để vinh thân phì gia, làm chuyện gian ác giết hại nòi giống, đồng bào không có chút lương tri. Tuồng Hộ Sanh (đỡ đẻ), nhân vật Tiết Cương là tượng trưng cho phong trào kháng Pháp như: Phan Ðình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Mai Xuân Thưởng, Trương Công Ðịnh. Nhân vật Tiết Nghĩa như những tên: Nguyễn Thân, Hoàng Cao Khải... Tuồng Trầm Hương Các (nói về Hoàng Phi Hổ đầu Châu), có ý đả phá một triều đình thối nát không còn ra thể thống quyền lực gì cả... Về mặt văn chương, những tác phẩm của cụ Ðào Tấn phải nói là trác tuyệt, mỗi câu hát Khách là những câu đối nên thơ, những câu sắp nam là những bài thơ ngắn, những lời nói lối cũng là những câu thơ nói lên nhiều tâm sự, ngọn bút sắc sảo tài tình, do vậy các vị nho sĩ, cử, tú trước kia đều ưa thích, tán thưởng. Nghệ thuật tuồng lại càng điêu luyện hơn, cách xây dựng lớp và nhân vật. Chỉ cần 5, 7 nhân vật cũng đủ làm nên một tuồng, chỉ cần 5, 7 lớp cũng đủ diễn tả một câu chuyện, ví dụ như tuồng Tân Dã Ðồn, Cổ Thành, Hộ Sanh...

          Cụ Ðào Tấn mất năm 1907 (Thành Thái năm thứ 19) để lại sự nuối tiếc cho giới khoa cử bạn bè của cụ lúc đó.

          3. Bộ môn hát bội đến nay gần như mai một vì không được nhân dân hiện thời hưởng ứng vì nhiều lý do

          Trước tiên nó không đáp ứng được trào lưu tiến hóa theo thời đại của lớp trẻ. Ðiệu hát quá khác xa với các điệu ca nhạc tân thời du nhập từ Tây phương. Lối hát Nam xuân, Nam ai, Xuân nữ, Khách, Tẩu mã, Bạch, Xướng theo điệu kèn, trống, đờn cổ xưa đã trở nên lỗi thời lạc lõng với tầng lớp nhân dân hiện nay. Vì vậy ít người thưởng thức, nếu tổ chức, những đêm hát không bán vé được bao nhiêu, không đủ tiền để nuôi nổi đoàn tuồng. Hiện nay tại Bình định, chính quyền cộng sản tỉnh có thành lập một đoàn hát bội gọi là Ðoàn tuồng Bình định, nghệ sĩ ăn lương nhà nước, nhưng cũng không đạt được yêu cầu. Các huyện cũng có các đoàn nhưng nghệ sĩ không đủ sống phải bỏ đi làm các nghề khác.

          Lối hành văn trong các tuồng hát bội thường theo thể biền ngẫu, mỗi câu mỗi chữ phải đối nhau, dùng nhiều từ Hán Việt và điển tích nên rất khó hiểu, nhất là những câu hát Khách toàn là chữ Nho nên không phổ biến được, lớp trẻ bây giờ lại ít hiểu, không hiểu thì không thể nào cảm mộ ưa thích được. Ví dụ như những câu hát Khách trong tuồng Hộ Sanh Ðàn, đoạn Võ Tam Tư đề binh đi tìm bắt Tiết Cương:

Thiết mã thiên quần phi tộ tuyết
Hùng binh vạn đội bó như tinh
Lôi đình Giang Hán quân thinh chấn
Tiết thị hưu tư vọng thoát sanh

Tạm dịch:

Ngựa sắt ngàn bầy chạy như tuyết bay
Binh hùng mạnh vạn đội bày bố đông như sao
Bên bờ sông Hán thủy tiếng quân reo vang dội như sấm
Họ Tiết chớ khá nuôi ý đào tẩu.

Hay những câu nói lối của Tiết Cương:

Kinh địa từ tế tảo song linh
Triều binh phút công vi vạn đội.

Tạm dịch:

Từ khi đến đất Kinh đô tế mồ mả cha mẹ
Nay bị binh của triều đình bầy bao vây trùng điệp.

Những câu Xướng, Bạch cũng thế toàn là chữ Nho và điển tích, như Lan Anh nhớ Tiết Cương:

Khéo lôi thôi dương liễu mạch đầu
Càng thánh thót hoàng oanh chi thượng

Mỗi câu là một bài thơ Ðường, thất ngôn tứ tuyệt:

Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tướng mạch phong hầu
***Khéo lôi thôi dương liễu mạch đầu

và bài:

Ðả khởi hoàng oanh nhi
Mạc giao chi thượng đề
Ðề thời kinh thiếp mộng
Bất đắc đáo Liêu Tề
*** Càng thánh thót hoàng oanh chi thượng.

          Nhiều và còn nhiều lắm những trường hợp như vậy, do đó người bình dân chỉ cảm theo giọng hát và bộ tịch chứ khó thấu đáo được lời tuồng, nên sự đam mê thích thú cũng giảm đi rất nhiều. Lối hát ứ ư, ứ ự cũng đã quá lỗi thời không còn thích hợp với giới trẻ, giới thanh niên nữa.

          4. Hát bội là môn nghệ thuật đi sâu vào lòng dân Bình định nói riêng và cho cả miền Trung nói chung từ Quảng trị đến Phan rang vào những năm 1975 trở về trước. Hát bội ở miền Nam cũng có nhưng thể điệu rất ngơi chậm và kéo dài, có lẽ ảnh hưởng của người Hoa.

          Ở Bình định thường có câu ca dao nói rõ sự đam mê của người dân về môn hát bội:

Hát bội hành tội người ta
Ðàn ông bỏ vợ, đàn bà bỏ con

          Ưa thích mê xem hát bội đến nỗi đàn ông mới cưới vợ nghe có đám hát cũng để vợ ở nhà một mình, đàn bà có con nhỏ không ở nhà ru con ngủ. Mỗi lần ở làng xã có chuyện cúng tế đình miếu thần hoàng đều phải mời đoàn hát bội đến hát lễ cúng thần linh, thường chọn bổn tuồng có nhân vật Quan Công tức ông Quan Vũ - Quan Vân Trường trong truyện Tam Quốc, vì quan niệm cho rằng ông đã hiển thánh sau khi tử trận, gương trung liệt nghĩa khí của ông đã sáng ngời với ba đức tính: "Bần tiện bất năng di, Phú quí bất năng dâm, Uy vũ bất năng khuất", mặc dù Tào Tháo trăm phương ngàn kế dụ dỗ, uy hiếp. Vì vậy các tuồng thường được trình diễn như: "Cổ Thành": Quan công phò nhị tẩu quá ngũ quan trảm lục tướng (qua 5 ải chém 6 tướng) đoàn tụ với Trương Phi ở Cổ thành; "Hoa Dung Ðạo": Quan Công tha Tào Tháo ở Hoa dung; hoặc "Tam Anh Chiến Lữ Bố" (Lưu, Quan, Trương đánh nhau với Lữ Bố), hoặc "Quan Công phó hội với Châu Du". Lấy hát bội để tế lễ thần linh như một món lễ vật quí giá dâng cầu thần cho mưa thuận gió hoà, dân cư lạc nghiệp, may mắn thịnh vượng, người ta gọi là hát "thứ lễ". Sau đó các chức sắc trong làng thường chọn các tuồng hát có tính cách tiểu thuyết, tình cảm như: Ngũ Hổ Bình Tây, Hộ Sanh, Tiết Giao đoạt ngọc, Mạnh Lệ Quân v.v...

          Ở chùa chiền cũng có tổ chức hát bội, nhất là vào dịp rằm tháng bảy lễ Vu lan, trong dân gian thường có câu: "Trong chay ngoài bội" trong chùa làm lễ cúng chẩn, bên ngoài hát bội, thường hát các tuồng có điển tích liên quan đến đạo Phật như: Mục Liên Thanh Ðề, Quan Âm Thị Kính, Phạm Công Cúc Hoa v.v...

          Mỗi lần có đám hát bội là mỗi lần trai gái trong làng có dịp gặp gỡ để tâm sự, trò chuyện, tán tỉnh, có cơ hội để trao đổi tình cảm. Do vậy mà dân chúng già trẻ đều ưa thích hát bội. Người nào hiểu được kỹ thuật, điệu nghệ, các thể loại của hát bội đều đam mê về tiếng kèn, nhịp trống, điệu đàn cò (còn gọi là đàn nhị), bởi nó diễn tả tình cảm: vui, giận, buồn, sợ, thương, ghét, ưa muốn (hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục) của mỗi nhân vật trong truyện tuồng mỗi vẻ khác nhau, theo tình tiết khác nhau, rất tế nhị. Lúc hùng tráng thì hát theo thể: Bạch, xướng, tẩu mã, giao ban, nói lối; lúc vui vẻ, sung sướng thì hát theo điệu: Nam xuân, nói lối, hát bài nhịp một, nhịp ba; lúc đau buồn thì hát theo điệu: Khách, nói lối. Mỗi thể loại điệu kèn, đờn, nhịp trống ăn khớp với giọng hát, câu ca, dễ làm cho người xem phải cảm động say mê. Mỗi lần có đám hát nghe tiếng trống kèn thúc giục, nhất là tiếng trống chầu đổ liên hồi làm náo nức rộn rã lòng người mà không đi được, chỉ tiếc là đến nay nó không còn thích hợp với tầng lớp trẻ nữa. Tân nhạc, phim ảnh đã thay thế làm môn giải trí thịnh hành hiện đại, nó dễ hiểu và dễ làm rung cảm lòng người, nên lần hồi môn hát bội bị thất truyền mai một. Hát bội giờ đã như một hình bóng cổ xưa, quê mùa đối với thanh thiếu niên Việt nam ngày nay, ngay cả Cải lương cũng thế.

 

VÕ NGỌC UYỂN

 



 

 


Nguon: http://giaodiemonline.com/2011/12/hatboi.htm

Các tin đã đăng:
Về đầu trang