Tuy
nhiên, để tiến tới một xã hội phát triển hài hoà thì nội dung và hình
thức ứng xử phải tương quan chặt chẽ với nhau. Những giá trị văn hoá cần
phải là những giá trị căn bản mà mỗi người dân biểu hiện trong đời sống
ứng xử hàng ngày. Thái độ ứng xử giữa con người với con người, giữa con
người và môi trường sống chính là thước đo cho giá trị văn hoá của một
dân tộc. Vì thế, bất cứ nền văn hoá của một dân tộc nào cũng phải cố
kết, hình thành một chỉnh thể thống nhất, vừa vận động vừa đối kháng để
tự sàng lọc và điều chỉnh. Văn hoá Phật giáo trong quá trình giao thoa,
tiếp biến đã trở thành một chỉnh thể không thể tách rời với văn hoá dân
tộc.

Dù xã hôi có nhiều thay đổi nhưng ngôi chùa làng
vẫn giữ vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh
của bất cứ vùng quê Việt Nam nào - Ảnh minh họa
Trong dòng chảy lịch sử, văn hoá Phật giáo luôn có khả năng thích ứng
nhằm đối kháng với các hình thức áp đặt văn hoá, đồng hoá văn hóa - chủ
yếu thông qua con đường chiến tranh đô hộ. Những làn sóng xâm thực cực
đoan về văn hoá luôn đặt ra những thách thức không nhỏ cho nền văn hoá
dân tộc. Nhìn vào hệ thống kết cấu văn hoá dân tộc, chúng ta thấy ở đó
không chỉ là sự hội tụ mà còn là sự đối kháng với các yếu tố văn hoá đến
từ bên ngoài.
Tuy nhiên, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ truyền thông, thế
giới như xích lại gần nhau hơn, văn hóa giữa các dân tộc được thu hẹp
dần khoảng cách. Dù muốn hay không hiện thực đó đòi hỏi những cách tiếp
cận và ứng xử linh hoạt hơn. Thực tế cho thấy, để thỏa mãn các nhu cầu
vật chất và tinh thần, giá trị nào có ảnh hưởng mạnh hơn, giá trị đó sẽ
chiếm ưu thế. Dù có đủ khả năng định lượng giá trị đó, xem nó ảnh hưởng
tiêu cực hay tích cực đến đời sống xã hội hiện đại, thì chúng ta cũng
phải thừa nhận đây là quá trình sàng lọc tất yếu mà một nền văn hoá
không thể không ý thức. Sẽ có những tác động mạnh đến cấu trúc của nền
văn hoá dân tộc, khi văn minh nông nghiệp đang được thay thế bằng văn
minh công nghiệp, khi đô thị hoá nông thôn đang diễn ra nhanh chóng, khi
sự tìm kiếm lợi nhuận trở thành xu hướng chủ đạo trong đời sống kinh
tế, khi tôn giáo cực đoan ngày một hoạt động mạnh và diễn biến phức tạp…
Có thể nhận ra những xu hướng xã hội sau đang tác động ít nhiều vào trong đời sống sinh hoạt tôn giáo:
- Xu hướng thực dụng, pha trộn, lai tạp trong đời sống ứng xử văn
hoá. Dễ nhận thấy ở xu hướng này là thái độ ích kỷ chỉ nghĩ đến cái lợi,
sự tiện nghi cho riêng mình; là sự tiếp thu tùy tiện, thiếu chọn lọc,
thiếu định hướng cho lối sống; là thái độ vồ vập thiếu cân nhắc trước
các trào lưu ngoại nhập, mặc cho thị hiếu thẩm mỹ tầm thường lấn lướt…
- Ngược với lối sống trên lại là xu hướng lánh đời, khép mình, tìm về
với những giá trị quá khứ một thời. Điều này phản ánh sự chông chênh
trong niềm tin và nhận thức khi tiếp cận với hiện thực mà ở đó có không
ít giá trị bị xem nhẹ, đảo lộn, dẫn đến đánh mất ý chí phấn đấu, không
đủ khả năng đối mặt với những thách thức trực tiếp. Từ đó tạo ra những
quan niệm bi quan về thời thế.
- Xu hướng tôn giáo nặng về phần tín ngưỡng, cầu cúng, lễ bái…; nặng
về hình thức lấy tiếng, quảng cáo, tiếp thị kinh doanh…; nặng về vọng
ngoại (cụ thể trong vấn đề kiến trúc, điêu khắc, y phục…). Trong khi
những mô hình tự viện có khả năng tiếp cận và chuyển hoá lối sống cộng
đồng diễn ra tự phát, giới hạn, chưa thực sự được phát huy hiệu quả.
Những thành quả được tổng kết hàng năm thường ít giá trị định tính,
thiên về định lượng (số lượng), phần nào làm chệch hướng nhận thức phát
triển bền vững.
- Xu hướng quan tâm đến việc hình thành một đặc điểm nhận diện. Chẳng
hạn một màu sắc đặc thù, một kiểu trang phục, kiến trúc…, một cách thức
hành lễ…, là thực tế đang diễn ra trong một số truyền thống tông môn,
tự viện. Song bắt nguồn từ ý thức nào, để có thể nhận diện văn hoá Phật
giáo như một nét đặc trưng của văn hoá dân tộc thì gần như chưa được
quan tâm, nếu không nói đó chỉ là những “ốc đảo” tự phát, ngày càng trở
nên phân mảnh trong ý thức phân hoá vùng miền. Thực tế, việc lựa chọn
một hình ảnh xuất hiện của Phật giáo thông qua một gam màu văn hoá ở cả
nghĩa đen và nghĩa bóng, sẽ xác lập ý thức cho một sự quảng bá hình ảnh
Phật giáo trong tương lai. Ngay cả hành vi đi đứng nói năng, cách chào
hỏi lễ độ (A Di Đà Phật, Mô Phật…), cái cúi đầy nghiêm trang, cái chắp
tay đầy đạo vị… cũng là những đặc thù trong văn hoá biểu hiện. Đó là
những biểu hiện trong văn hoá để người Phật tử dễ dàng nhận ra nhau
trong quan hệ ứng xử hàng ngày.
- Xu hướng dấn thân đa dạng. Trong điều kiện xã hội hiện đại, dù tiếp
nối tinh thần nhập thế của tiền nhân như thế nào, thì chắc chắn sẽ có
những dao động về hình thức dấn thân. Những cú sốc văn hoá, những dịch
chuyển trong quan niệm tạo ra cách thức dấn thân khác với truyền thống
có thể dẫn đến tranh luận. Song tất cả những điều này buộc người tu sĩ
phải điều chỉnh và thích ứng để tồn tại. Trong quá trình vừa phá vỡ, vừa
mở ra này, có thể những hình thức dấn thân mới sẽ đi vào ổn định, nếu
thuyết phục được rằng tinh thần nhập thế ấy đã được tiếp nối nhằm đem
đến lợi ích an lạc thực sự cho cộng đồng, chứ không phải sự vun vén,
hưởng thụ cho bản thân, hay tạo ra lợi ích nhóm cục bộ dù đứng dưới danh
nghĩa là một tổ chức tôn giáo.
- Xu hướng phát triển theo chiều rộng, ưa bề nổi, hoành tráng. Xu
hướng này phần nào không tương thích với cấu trúc của chiều sâu, vì thực
tế hai phương cách thức thực hiện khó đi cùng với nhau trong một thời
điểm. Sự phát triển không cân đối trong một chỉnh thể văn hoá (quá thiên
về cái này, quá thiên về cái kia) sẽ tạo ra những phân hoá trong ứng
xử. Việc đóng góp nhân lực, vật lực, tài lực cho các công tác tôn giáo,
tín ngưỡng có xu hướng dịch chuyển vào đối tượng giàu có, có chức quyền.
Đây là một thực tế của cái thời người ta vừa bước ra khỏi đói nghèo,
thiếu thốn. Song xu hướng này phần nào phản ánh tâm thức ăn bù (ăn xổi, ở
thì). Nếu không điều chỉnh tích cực, xu hướng này có thể làm mất đi
tính chất hồn nhiên, cố kết, chia sẻ trong cộng đồng làng xã, dân cư,
chí ít ở trách nhiệm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa Phật giáo.
Vì vậy, để cân bằng trước thực tế phát triển này, cần một quan niệm mới
trong hoằng pháp, để làm sao các giai tầng trong xã hội cùng tham gia
vào quá trình bảo tồn các giá trị Phật giáo, mà ở đó không có biểu hiện
đặc quyền, đặc lợi, hay phân chia giàu nghèo.
- Xu hướng phân hoá trong quan niệm tu hành. Cụ thể khi có điều kiện,
một số chức sắc có xu hướng dịch chuyển trong quan niệm tu hành và ứng
xử. Đặc biệt khi sự tu chứng, khám phá chiều sâu giáo lý, lối sống giản
dị đã dịch chuyển sang sự phát triển về chiều rộng của các hình thức
giao thiệp, tiếp xúc, tuyên truyền, kinh doanh, xây dựng chùa chiền nguy
nga… Từ đó dần phá vỡ ý nghĩa về mặt đoàn kết tăng đoàn, dễ tạo ra
những phân hoá trong tông môn và hình thành sự tách biệt của các mô hình
Phật giáo. Hình ảnh chùa giàu, chùa nghèo, Tăng Ni giàu, Tăng Ni nghèo
tạo thêm những phân hoá trong ứng xử Tăng đoàn. Nếu không bám sát vào
giới luật, sẽ dẫn đến những ứng xử giống như thế tục, tức những người có
tiền, có quyền sẽ có tiếng nói quan trọng, thay vì đó là những người có
tư cách đạo đức vượt trội của một tập thể đoàn kết, hòa hợp.
- Xu hướng thế quyền hoá đang dẫn đến những nghi ngại trong phương
thức quản lý tăng ni, Phật tử. Chính xu hướng này tạo ra các nhóm lợi
ích có khả năng thao túng tổ chức (dựa vào uy quyền chứ không phải uy
đức). Đặc biệt khi tổ chức chưa đủ năng lực chuyên môn để xử lý những
mâu thuẫn dưới cả góc độ pháp luật lẫn giáo luật. Vì thế những quy tắc
tông môn, hệ phái và những quy định trong cơ cấu tổ chức Giáo hội cùng
một lúc tác động ngược trở lại với hệ thống giáo lý, giáo luật và những
ứng xử truyền thống. Sự khác biệt trong việc xử lý tình huống giữa giáo
luật và pháp luật, giữa tự viện và tổ chức đã dẫn đến không ít những
khác biệt trong đời sống sinh hoạt của người Phật tử. Nếu không điều
chỉnh tích cực sẽ có nguy cơ vô hiệu hoá khả năng sáng tạo, tự thích
nghi, hài hoà của Phật giáo.
- Xu hướng kết hợp, dung hợp văn hóa đã, đang và sẽ còn là xu hướng chủ đạo của văn hoá Phật giáo Việt Nam
trong tương lai. Văn hoá Phật giáo dung hòa với đạo thờ cúng ông bà tổ
tiên của người Việt, dựa trên nền tảng của hiếu đạo Phật giáo, cũng như
một đời sống nhân quả thuần thiện. Cần giữ gìn những nét tinh hoa nhất
của thờ cúng, tưởng niệm, kỷ niệm sao cho phù hợp với đạo đức ứng xử
truyền thống, hạn chế phô trương hình thức. Đồng thời những khái niệm
như văn hoá xếp hàng, văn hoá giao thông, văn hoá kinh doanh, văn hoá xả
rác… phải được thường xuyên cập nhật để hài hòa với oai nghi của người
Phật tử.
- Xu hướng cho rằng Phật giáo giữ vai trò nền tảng đạo đức dân tộc.
Điều đó dựa trên hệ thống các chuẩn mực, nguyên tắc ứng xử có bề dày
lịch sử, hay dựa trên thực tế số lượng tín đồ đang hành đạo và các chuẩn
mực chung trong xã hội đang gặp khủng hoảng? Sẽ có đủ điều kiện để
khẳng định xu hướng này, nếu hệ thống các chuẩn mực và các nguyên tắc
ứng xử cơ bản, những bài học làm người của Phật giáo trở thành nhân tố
cơ bản trong hệ thống giáo dục. Tuy nhiên, trước khi nó trở thành một
nhân tố cơ bản trong hệ thống giáo dục thì nó phải phát huy hiệu quả
trong thực tế ứng xử của người Phật tử, của một tổ chức giáo hội. Sự
kiểm soát trong ý thức hệ Nho giáo ở những thế kỷ trước đối với Phật
giáo đã tạo ra những tranh luận về mặt đạo đức học, nhưng cuối cùng sự
thắng thế nằm ở thực tiễn ứng xử mà nhân gian đã tôn sùng, chứ không
phải ở một chính sách bất bình đẳng hay nhìn nhận một cách hời hợt về
Phật giáo. Vai trò cân bằng của một thể chế văn hóa (vô thần hay hữu
thần) không phải là sự cào bằng mà là ý thức cho một điểm tựa văn hoá ở
tầm quốc gia, chủ yếu dựa trên những ảnh hưởng thực tế trong đời sống
ứng xử.
Những vấn đề về văn hoá và đối kháng văn hoá xảy ra trên bình diện xã
hội ngày càng cho thấy tính chất phức tạp đan chen của những quan niệm
về văn hoá. Như thế rất cần một định hướng rõ ràng, cụ thể hơn cho một
lối sống ứng xử văn hóa. Bởi hai nghìn năm Phật giáo ấy là gì, nếu không
muốn nói rằng đó những phong cách ứng xử đã trở thành di sản vật thể và
phi vật thể trong nền văn hoá dân tộc. Muốn thế, việc đẩy mạnh cho một
hình mẫu văn hoá, như một niềm tin, một biểu hiện văn minh, trước tiên
cần phải được chuẩn hoá trong hệ thống giáo dục Phật giáo. Sự xuống cấp
về văn hoá, lối sống hiện nay có nguyên do từ đâu, trách nhiệm thuộc về
ai? Và nếu không phải đã có những ứng xử lệch chuẩn trong văn hóa, thì
nguyên nhân gì lối sống xã hội lại thể hiện sự bất tín vào các giá trị,
trong đó có cả các giá trị tôn giáo.
Phật giáo Việt Nam trong 30 năm ấy đã tạo ra một bước chuyển gì trong
việc xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư, làng xã, phường xóm, thôn
ấp. Và những công việc làm thay đổi lối sống ứng xử của cộng đồng kia có
phải chỉ là từ thiện xã hội? Thực tế, không có nhiều những cuộc tranh
luận tư tưởng để lôi cuốn dư luận ở tầm quốc gia vào những chủ đề lớn
của văn hoá dân tộc, để tìm ra những mẫu số chung trong ứng xử, nhằm tạo
niềm tin trong dư luận xã hội. Tư tưởng Trần Nhân
Tông, tư tưởng Nguyễn Trãi, tư tưởng Nguyễn Du, tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ
tham dự thế nào trong quá trình khuếch trương sức mạnh của nền văn hoá
dân tộc?
Có thể nói, vướng mắc lớn nhất của chúng ta trong các vấn đề về văn
hoá, xã hội vẫn là khả năng định tính. Định tính để thấy những khác biệt
trong các loại hình văn hoá vùng miền, trong cả quan niệm và cách ứng
xử, trong cả thang mức đánh giá, mặc dù trong văn hoá khó có thể nói đến
yếu tố cao thấp giữa một người ăn bốc và một người cầm đũa. Có những
cách tiếp cận khác trong kho tàng kinh luận Phật giáo để người Phật tử
nhập cuộc với thế sự, hoà mình vào dòng chảy kinh tế - văn hoá, đối mặt
với những thách thức mới trong đời sống văn minh đô thị hiện đại. Chắc
chắn mái chùa phải bước dần từ cấu trúc làng xã khép kín sang một cấu
trúc mở của đô thị, từ đó trên nền tảng phân tầng giai cấp xã hội, sẽ
dần cuốn hút một lượng lớn trí thức, doanh nhân, công chức, sinh viên,
học sinh, công nhân lao động vào với dòng chảy văn hoá Phật giáo, xem
Phật giáo như một lối sống hướng thiện và giảm thiểu căng thẳng cuộc
sống.
Dù không trực tiếp tham dự vào cuộc cạnh tranh kinh tế, song do có
những hấp lực văn hoá, mà Phật giáo có thể đóng vai trò điều hoà mâu
thuẫn, hướng con người đến những lợi ích thiết thực hơn cho công đồng. Ở
đó có thể nhìn ra nét văn hoá tương thân, tương ái, thể hiện tinh thần
từ bi cứu khổ của nhà Phật một cách không phân biệt. So với dân số và sự
ảnh hưởng của Phật giáo, cũng như nền tảng của quan hệ ứng xử Tam giáo,
về mặt kết cấu xã hội, văn hóa Việt Nam khá thống nhất trong văn hoá
Phật giáo. Nhưng tầm ảnh hưởng phổ biến đó sẽ định hướng như thế nào để
Phật giáo Việt Nam có thể phát triển hài hòa, hay trở thành một nền tảng
văn hoá cho sự hòa hợp và hoà giải các mâu thuẫn, xung đột xã hội, tôn
giáo? Trước tiên cần phải thống nhất trong những điều kiện khác biệt của
văn hoá vùng. Đây là cơ sở đầu tiên cho việc đoàn kết, giảm thiểu sự
chia rẽ trong cộng đồng. Ý thức ứng xử thể hiện trong mỗi mái chùa, mỗi
nếp áo, mỗi cái chắp tay vái chào nhau, sẽ luôn làm đẹp cho văn hoá Phật
giáo.
Thay đổi thói quen sống lệ thuộc quá nhiều bằng vật chất, hướng tới
đời sống sẻ chia, gần gũi và hài hòa hơn với môi trường là một trong
những khuyến khích quan trọng của Phật giáo. Không thế khuếch trương
tinh thần này, nếu các di sản Phật giáo bị lợi dụng cho những hình thức
kinh doanh du lịch, tàn phá môi trường. Dĩ nhiên việc thúc đẩy lối sống
này, dù có song song với sự phát triển vượt bực của kinh tế, thì cũng
không thể phá vỡ cấu trúc văn hoá. Cần phải để mỗi người dân tự nhận ra
giá trị, tự mang những giá trị văn hoá ấy vào lối sống ứng xử.
Đáng nói, một khuynh hướng quảng bá hình ảnh có tính chất văn hoá đặc
thù vẫn còn mờ nhạt trong ý thức xã hội. Từ truyền thống đến hiện đại,
văn hoá cần phải là một cẩm nang trong ứng xử, trong các hoạt thường
nhật và phản chiếu rõ nét vào trong lối sống. Do đó, rất cần nhìn thẳng
vào chiều sâu ảnh hưởng của một nền văn hoá. Thí dụ như nói đến Nhật Bản
là nói đến nền văn hoá chịu ảnh hưởng sâu đậm bởi Thiền đạo và Thần
đạo, hay nhắc tới Trung Hoa là nhắc tới văn hoá Khổng giáo… Ở Việt Nam, chùa Một Cột (biểu tượng đoá sen) hoàn toàn có thể trở thành biểu trưng cho hình ảnh của dân tộc. Tư tưởng Trần Nhân Tông hoàn toàn có thể trở thành kim chỉ nam cho tư tưởng Phật giáo Việt Nam… Có thể nói, nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá có sự kết hợp hài hòa giữa đạo Phật và đạo thờ cúng tổ tiên.
Ở bình diện quốc tế, những giá trị Phật giáo đã được khẳng định như
một tôn giáo tiến bộ nhất trên toàn cầu cả về giáo lý và sự hành trì.
Vậy muốn có một nhân gian Phật giáo, thì Phật giáo phải là Phật giáo của
nhân dân. Nhân dân phải thấy nó gần gũi hài hoà và gắn bó với đời sống
vật chất và tinh thần của mình. Không thể có một tôn giáo với những cơ
sở khang trang tiện nghi mà lại tạo ra những hố sâu ngăn cách với người
nghèo, gây lên sự dị ứng với xã hội. Giảm bớt những bất bình của người
dân hướng đến tôn giáo không phải là bài học quá mới, mà từ lâu, ngay
chính trong lòng xã hội phương Tây, tôn giáo, đất đai và bạo chúa đã
được xây dựng trên hình ảnh của một gia tầng bóc lột, ăn trên, ngồi
trốc. Để chuyển hướng sự chú ý của công chúng vào một niềm tin xã hội
hay một hợp đồng xã hội, cách duy nhất là tạo ra những nhân tố sống và
hành đạo xứng đáng với vai trò hộ quốc an dân, từ bi cứu khổ của đạo
Phật./.
Ban Văn hóa TƯGH