“Phật giáo ở đâu trên bản đồ vùng Tây Bắc”
là tựa đề một bài viết của tác giả Thích Thanh Thắng. Đề tài bài viết
không mới, nhưng bài viết có nhiều thông tin mới. Cùng với cách nghĩ của
tác giả, chúng tôi có bài viết này.
Mở rộng theo chiều không gian, với cách đặt vấn đề của tác giả, chúng ta sẽ có một loạt câu hỏi tương tự:
- Phật giáo ở đâu trên bản đồ vùng Tây Nguyên?
- Phật giáo ở đâu trên bản đồ vùng Bắc Trung Bộ?...
Với
nhiều tỉnh, Phật giáo theo thống kê dân số toàn quốc năm 2009, thì chỉ
có vài trăm tín đồ, chênh lệch với con số tín đồ của tôn giáo khác trong
cùng cuộc thống kê đến hàng trăm lần.
Theo
chiều thời gian, chúng ta có thể xem xét ý nghĩa thời điểm của câu hỏi
này. Theo chúng tôi, đó là một câu hỏi muộn màng. Muộn màng đối với Phật
giáo Việt Nam và muộn màng vì nó không còn là vấn đề của Phật giáo nữa.
Tôi
không hiểu nhiều về Phật giáo Tây Bắc, nên dựa vào thông tin của tác
giả Thích Thanh Thắng để bàn luận, cũng như bàn luận chú trọng vào những
vấn đề chung, chẳng hạn như gồm cả Tây Nguyên.
Bây
giờ, việc thừa nhận Phật giáo đã trở thành tôn giáo thiểu số ở một số
khu vực rộng lớn của đất nước, và ở đó đã có những vùng trắng Phật giáo,
nơi Phật giáo không còn tín đồ hoặc chỉ có tín đồ không đáng kể, là một
điều rõ rằng, hiển nhiên, không còn có thể bàn luận gì nữa cả. Trước
đây vài năm, khi chúng tôi đặt vấn đề Phật giáo đang thiểu số hóa, thì
đã có nhiều ý kiến không đồng tình. Sau cuộc thống kê dân số toàn quốc
năm 2009, và nhiều bài viết, đến nay vấn đề đã rõ ràng.
Trước
tình hình như thế, câu hỏi được đặt ra là, liệu có thể xoay chuyển tình
thế, hoằng pháp có kết quả, đưa Phật giáo trở lại những vùng như Tây
Nguyên, Tây Bắc?
Về
mặt thời gian, ở Tây Nguyên (đối với các dân tộc thiểu số), Phật giáo
đã chậm chân khoảng 70 năm. Đối với Tây Bắc, Phật giáo đã chậm khoảng 25
năm. Với quãng thời gian chênh lệch lớn như vậy, thì việc đuổi kịp là
điều mong manh, cần có những yếu tố phi thường nơi Phật giáo.
Khác
biệt về quan điểm, dẫn đến chênh lệch về mức độ quan tâm là điều hầu
như không thể khắc phục. Các tôn giáo khác thì có đài phát thanh truyền
đạo nói tiếng các dân tộc thiểu số, chức sắc tôn giáo người dân tộc
thiểu số bản địa được trả lương, kinh sách dĩa hình giáo lý tiếng dân
tộc thiểu số, một số đông tín đồ tạo thành một xu hướng theo đạo… Phật
giáo chưa có những thứ đó.
Về
mặt văn hóa, Phật giáo Việt Nam và các dân tộc thiểu số Tây Nguyên có
một khoảng cách lớn. Lưu tâm đến vấn đề, chúng tôi có chú ý đến hình
thức những ngôi chùa Tây Nguyên (chùa ở Tây Bắc không thấy), thì thấy ở
đó phong cách kiến trúc, trang trí, thờ tự, nghệ thuật mang đậm màu sắc
Trung Quốc, khác biệt rất xa với kiến trúc những ngôi nhà thờ theo kiểu
nhà rông Tây Nguyên.
Đưa văn hóa chùa đậm màu sắc Trung Quốc như thế, với những vị hòa
thượng ăn vận mũ mão cũng đậm màu sắc Trung Quốc, vào văn hóa các dân
tộc thiểu số Tây Nguyên là điều không thể tưởng tượng nổi. Một số đạo đã
vượt qua hố sâu ngăn cách văn hóa đó để trụ vững ở Tây Nguyên, Tây Bắc,
còn Phật giáo thì vẫn loay hoay ở phía bên này, dường như chưa có
phương án nào cả để vượt qua sự cách biệt văn hóa. Nếu đưa được một ngôi
chùa kiểu như chùa Minh Thành ở Pleiku chẳng hạn vào buôn làng của
những dân tộc thiểu số, thì liệu người ta có chấp nhận, hay tạo một tác
nhân dị ứng văn hóa?
Hai
mươi năm, từ 1954 ở miền Nam, Giáo hội Phật giáo lúc bấy giờ không quan
tâm đến việc hoằng pháp cho đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên,
và dường như không ai nêu ra vấn đề này. Đến năm 1975, Phật giáo chỉ
được hiểu là Phật giáo của dân tộc Kinh theo quan điểm của giáo hội lúc
bấy giờ (Phật giáo dân tộc Khmer và Hoa có những tổ chức riêng rẽ, hầu
như hoàn toàn tách biệt). Đến nay, vẫn chưa có sự chuyển đổi quan điểm
trên một cách căn bản, rằng Phật giáo Việt Nam là Phật giáo của các dân
tộc trên lãnh thổ Việt Nam. Việc không chuyển đổi quan điểm thể hiện qua
nhân sự giáo hội, nhân sự đang được đào tạo tại các cơ sở Phật giáo
(chỉ mới có thêm các dân tộc Khmer, Hoa).
Một
quan điểm đáng lưu ý là hiện thực có cạnh tranh tôn giáo không được một
số vị giáo phẩm Phật giáo thừa nhận, trong khi các tôn giáo đến từ
phương Tây lại xác định rất rõ điều này. Hệ quả đương nhiên là trong
những tình huống địa phương, đặc biệt như ở Tây Bắc, Tây Nguyên, Phật
giáo đương nhiên sẽ bị loại ra ngoài, và việc đó xuất phát từ chính Phật
giáo. Nếu vẫn giữ tư duy như thế, thì được đưa Phật giáo đến với đồng
bào dân tộc thiểu số ở Tây Bắc, Tây Nguyên mãi mãi dẫm chân tại chỗ, chỉ
có thể có vài cái chùa, không có tín đồ dân tộc thiểu số bản địa, chỉ
để trưng bày, hay chỉ có một cách tượng trưng cơ sở chính thức giáo hội
Phật giáo.
Một
điều cũng đáng chú ý nữa là các tôn giáo phương Tây, đặc biệt một số
giáo phái, có sự hậu thuẫn mạnh mẽ từ phương Tây, từ việc chỉ đạo, lập
kế hoạch, điều hành việc truyền đạo, đến việc đầu tư tài chính, ứng dụng
những kỹ thuật truyền thông hiện đại. Trong khi đó, đối với phía Phật
giáo, chỉ nêu ý kiến về hiện trạng thiểu số hóa, với các thống kê cụ thể
thì đã có ý kiến không thống nhất, thì còn nói chi đến việc đồng tâm
hiệp lực hoằng pháp để cải thiện tình hình. Quan tâm đến vấn đề thì được
khuyên là… thôi đừng vong động, nên để tâm an!
Với
xuất phát điểm như thế, tương quan các bên như thế, so sánh tư duy,
quan niệm như thế, thực lực như thế, thì quả thực, câu hỏi “Phật giáo ở
đâu trên bản đồ vùng Tây Bắc” là một câu hỏi muộn màng. Nó muộn ở đủ mọi
mặt: thời điểm xuất phát, xác định quan điểm, chuẩn bị nhân sự phương
tiện, hình thành kế hoạch…
Những
chuyến cứu trợ, hay quy y dành cho người dân tộc thiểu số để chụp hình
quay phim cũng là những cố gắng muộn màng, không kết quả. Mà chỉ bấy
nhiêu thì có mà lấy muối bỏ bể. Người ta có đài phát thanh, có nhân sự
đào tạo và trả lương tháng, chịu trèo đèo lội suối truyền đạo, có tiền
triệu đô la tài trợ, vậy thì ăn thua chi mấy chuyến cứu trợ, mấy buổi
quy y hình thức? Đó cũng là một hình thức của câu hỏi “Phật giáo ở đâu”
một cách vô vọng.
Tuy
nhiên, nếu kịp thời thay đổi quan niệm, nỗ lực triệt để Phật giáo cũng
vẫn có hy vọng rút ngắn khoảng cách. Rút ngắn khoảng cách thôi, chứ thay
đổi vị trí tổng sắp là không thể.
MT