khóa tu mùa hè
2017 tại chùa Phước Duyên
Già trẻ lớn bé đều có nỗi khổ với
cấp độ cảm thọ và nhận thức khác nhau. Tuy nhiên, phần lớn những người quan tâm
học và thực hành Phật pháp là thành phần trung niên và lớn tuổi. Câu hỏi đặt ra
là tại sao giới trẻ ít quan tâm học và thực hành Phật pháp? Phải chăng Phật giáo
không có giáo pháp cho giới trẻ hay vì nguyên nhân nào khác mà giới trẻ chưa có
cơ hội học Phật pháp. Bài viết sẽ nêu ba khía cạnh về Phật giáo và giới trẻ nhằm
giải đáp phần nào vấn đề nêu trên.
Từ “giới trẻ” không có một quy chuẩn độ tuổi nào cụ thể nên ở
đây tạm giới hạn từ 30 tuổi trở xuống bao gồm cả trẻ em.
Những bài pháp về/cho giới trẻ
Giáo pháp Đức Phật giảng dạy có nhiều nội dung rất phù hợp cho
giới trẻ thực hành. Bài kinh tiêu biểu dạy trẻ con là kinh Giáo giới
La-hầu-la ở rừng Ambala, kinh số 61 thuộc Trung bộ. Nội dung bài kinh
Đức Phật dạy La-hầu-la về thiện và bất thiện/ác thông qua ba nghiệp thân, khẩu,
ý. Đầu tiên, Đức Phật dạy về khẩu nghiệp. Mượn hình ảnh cái chậu nước, Đức Phật
dạy La-hầu-la rằng người nói láo không biết xấu hổ thì không ai tin dùng như
nước bị dơ, nước bị đổ hết không dùng được. Dùng ví dụ con voi không giữ gìn cái
vòi đồng nghĩa với bỏ mạng sống, Đức Phật dạy người nói láo không biết xấu hổ
thì không có việc ác gì không làm. Kế đến, dùng hình ảnh cái gương, Đức Phật dạy
phải luôn phản tỉnh lại chính mình để biết ba nghiệp thân khẩu ý đang làm thiện
hay làm ác để biết từ bỏ làm ác và tinh tấn làm thiện.[1]
Với nội dung về nói láo, về thiện và ác thì giới trẻ rất cần phải học để thực
tập không nói láo, làm thiện và tránh ác để trở thành người có đạo đức trong xã
hội và có hạnh phúc trong cuộc sống.
Một bài kinh khác giới trẻ cần phải học và thực hành để có hạnh phúc ngay trong
hiện tại và không bị đọa lạc vào các nẻo ác là kinh
Người áo trắng.[2]
Bài kinh nói rằng nếu người cư sĩ biết giữ gìn năm điều đạo đức (năm giới) và tu
tập bốn tâm cao thượng thì sẽ có hạnh phúc trong hiện tại và không bị đọa vào
các nẻo ác như địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh; đồng thời dự vào dòng
Thánh. Năm điều đạo đức gồm: thứ nhất không giết hại, có
lòng từ bi bảo vệ sự sống; thứ hai không trộm cắp, thường bố thí, từ bỏ tâm tham
lam, bỏn xẻn, keo kiệt; thứ ba không tà dâm ngoại tình, bảo vệ hạnh phúc gia
đình; thứ tư không nói láo, không nói lời chia rẽ, không nói tục chửi thề và nói
sự thật, nói lời xây dựng, nói lời lịch sự; thứ năm không uống rượu và ma túy,
không sử dụng các chất gây say, độc tố. Bốn tâm cao thượng gồm: quán niệm Đức
Phật là bậc Giác ngộ; quán niệm
Chánh pháp là những lời dạy của Đức
Phật có khả năng đưa đến giải thoát; quán niệm Tăng là đoàn thể những người đi
trên con đường thiện, con đường Thánh; và quán niệm giới
luật có khả năng đưa đến đời sống đạo đức thanh cao. Những lời dạy nền tảng về
đạo đức và phương pháp đạt được tâm cao thượng như là kim chỉ nam hướng người
đến hạnh phúc. Nếu giới trẻ được học và thực hành dù chỉ một phần trong các điều
trên thì cũng rất lợi ích cho bản thân và xã hội.
Ngoài ra, còn có rất nhiều bài pháp với nguồn giáo lý rất phù hợp cho giới trẻ
như vô ngã, vô thường, nhân quả… Như vậy, Phật giáo có rất nhiều
giáo pháp cho giới trẻ. Nội dung về nhân quả, đạo đức, thiện ác, quả báo đọa lạc
vào các nẻo khổ như địa ngục, ngạ quỷ rất thiết thực để giới trẻ học và thực
hành. Nếu giới trẻ được giáo dục đầy đủ các nội dung trên thì hy vọng về đời
sống hạnh phúc cho bản thân chúng và bình yên cho xã hội là điều có thể xảy ra.
Làm sao để giới trẻ có thể tiếp cận học và thực hành Chánh pháp là điều sẽ trình
bày phần dưới.
Giới trẻ và vấn đề “tâm linh”
Thuật ngữ “tâm linh” được định nghĩa trong Từ điển
tiếng Việt[3]
là tâm hồn, tinh thần, khả năng biết trước một biến cố nào đó sẽ xảy ra đối với
mình. Theo trang Wikipedia, tâm linh bao hàm trí tuệ, ý thức, tinh thần,
linh hồn của một động vật hay con người.[4]
Như vậy, “tâm linh” có thể tạm hiểu là đời sống tinh thần bao gồm văn hóa, tập
quán, đạo đức, lối sống, niềm tin tín ngưỡng và niềm tin tôn giáo.
Với Phật giáo, “tâm linh” được biểu hiện qua đời sống tín ngưỡng, cầu nguyện
cúng bái, lễ hội… Cầu nguyện cúng tế là sinh hoạt tôn giáo được nhiều người thực
hành và cho rằng đó là đời sống tâm linh. Theo thiển ý của người viết, vì yếu tố
tôn giáo bao gồm cúng bái, cầu khấn trở thành một phần trong đời sống của tín đồ
nên chữ “tâm linh” được dùng để miêu tả hiện tượng trên. Hơn nữa, vấn đề siêu
hình như linh hồn (thần thức hay tâm thức trong Phật giáo) và tái sinh trong các
kiếp sống vượt trên ý nghĩa đời sống tinh thần bình thường bao gồm các cảm xúc
vui, buồn, thương, ghét… của con người nên thuật ngữ “tâm linh” được mượn dùng
để giải thích.
Căn cứ vào kinh Nikāya, khó tìm thấy nội dung nào giải
thích thuật ngữ “tâm linh” vì hình thức hoạt động cầu cúng không phải là chủ
trương của Đức Phật. Ngược lại, sự thực tập chuyển hóa
phiền não để có sự an lạc và chứng Thánh quả trong hiện
tại hay tương lai được Đức Phật thuyết giảng trong cả
cuộc đời của Ngài và được lập lại trong rất nhiều bài kinh. Nếu xem lối sống đạo
đức và sự tu tập chuyển hóa để có hạnh phúc trong hiện tại và vượt khỏi sanh tử
luân hồi khổ đau trong tương lai là “tâm linh” thì khái niệm này có thể dùng
trong Phật giáo.
Từ định nghĩa và giải thích trên, người viết tạm dùng thuật ngữ “tâm linh” với ý
nghĩa là thực hành đạo đức, sự chuyển hóa khổ đau và hình thức tín ngưỡng cúng
bái. Vậy thì giới trẻ có quan tâm đến vấn đề tâm linh không?
Có thể nói giới trẻ vị thành niên tự có ý thức cúng bái cầu khấn là rất hiếm.
Chúng tự tìm học và thực hành đời sống đạo đức Phật giáo thì càng hiếm hơn. Tuy
nhiên, hai trường hợp trên có thể xảy ra nếu chúng được người lớn trợ giúp như
hướng dẫn đến chùa, hướng dẫn quy y Tam bảo…
Giới trẻ thành niên thì có thể tự thực hành đời sống tâm linh qua việc đến chùa
lễ bái, cầu nguyện, học giáo pháp, tu tập đạo đức Phật giáo. Tuy nhiên, số lượng
giới trẻ thành niên đến chùa lễ bái cầu nguyện thường nhiều hơn số lượng đến
chùa tu học Phật pháp. Điều này có thể nhận thấy ở hầu hết các ngôi chùa nếu
không muốn nói là tất cả.
Như vậy, giới trẻ có quan tâm đến đời sống “tâm linh” nhưng còn khiêm tốn và
thường nghiêng về hướng cầu nguyện, lễ bái hơn là thực tập đạo đức, chuyển hóa
nội tâm theo tinh thần Phật giáo.
Môi
trường giới trẻ đến với Phật giáo
Giới trẻ đến với Phật giáo xảy ra trong môi trường chùa[5]
và môi trường xã hội. Môi trường chùa là giới trẻ đến chùa lễ bái, cầu nguyện,
tu học Phật pháp với chư Tăng Ni.
Môi trường xã hội là giới trẻ thành lập các nhóm tự sinh hoạt Phật pháp hay tự
tìm hiểu giáo pháp qua các phương tiện nghe nhìn. Môi trường xã hội đối với giới
trẻ phần lớn giới hạn ở cấp độ tạo phước, vui chơi và thực hành đạo đức xã hội.
Giới trẻ sẽ gặp nhiều khó khăn để hiểu giáo pháp nếu chỉ giới hạn ở môi trường
xã hội.
Với môi trường chùa, có hai trường hợp xảy ra. Một là giới trẻ tự tìm đến chùa
do có nhân duyên nào đó hay do sự thu hút bởi các hoạt động của chùa. Hai là
giới trẻ được người lớn hướng dẫn. Trường hợp một xảy ra đối với giới trẻ thành
niên còn trường hợp hai xảy ra cho cả giới trẻ vị thành niên và thành niên.
Giới trẻ vị thành niên tự đến chùa tu học là điều khó xảy ra vì bản
thân chúng chưa đủ ý thức về tu học và nếu chúng muốn đến
chùa cũng bị phụ huynh can thiệp. Hầu hết giới trẻ vị thành niên đến chùa là do
phụ huynh hướng dẫn. Tuy nhiên, số lượng phụ huynh Phật tử ý thức được trách
nhiệm hướng dẫn con em về chùa tu học là rất hạn chế. Hơn nữa, ngay cả bản thân
phụ huynh Phật tử cũng chưa ý thức được giá trị tu học ở chùa nên ít khi về chùa
trừ khi có hữu sự. Đó là lý do chính tại sao giới trẻ ít đến chùa.
Giới trẻ thành niên tự ý thức đến chùa phần lớn là lễ bái cầu nguyện. Một số đến
chùa tu học giáo pháp rơi vào hai trường hợp. Một là chúng bị thu hút bởi các
thời pháp của các vị giảng sư. Hai là chúng bị thu hút bởi các hoạt động tu học
của chùa do Tăng Ni tổ chức và
nhiều tình nguyện viên tham gia như trường hợp tại một số ngôi
chùa đang tổ chức những khóa tu quy mô hiện nay. Ở các chùa này, mặc dù có đông
chư Tăng nhưng nếu không có lực lượng tình nguyện viên thì Phật sự không thể
thành tựu.
Phần lớn các chùa ở các tỉnh đều ít Tăng chúng. Một vị trụ trì
lo phục vụ tín ngưỡng quần chúng đã chiếm gần hết thời gian. Do đó, một cách duy
nhất để có thể tổ chức hoạt động thu hút giới trẻ là có sự tham gia của cư sĩ.
Khi đó, cư sĩ đảm trách tổ chức các hoạt động cho con em tham gia còn chư Tăng
Ni phụ trách chuyên môn giảng dạy giáo pháp.
Tuy nhiên, các chùa có thể thành lập được các hội đoàn, gia đình
Phật tử, câu lạc bộ… như các tôn giáo khác nhằm xây dựng các chương trình hoạt
động tu học để thu hút giới trẻ là một bài toán khó trong trường hợp Phật giáo
Việt Nam. Hiện tại, chỉ có một số rất ít chùa tạo được mô hình này.
Nhiều đề xuất được đưa ra nhằm thu hút giới trẻ về chùa tu học như tổ chức dạy
cắm hoa, dạy thư pháp, hội họa, vi tính… Tuy nhiên, các hoạt
động này không phải là nhiệm vụ sở trường của Tăng Ni mà nó thuộc về chuyên môn
của cư sĩ. Cho nên, không có sự tham gia của cư sĩ thì cũng khó thực hiện được.
Thay
lời kết
Giáo pháp của Đức Phật có rất nhiều nội dụng rất thiết thực cho
giới trẻ. Để biết, để học và thực hành giáo pháp, giới trẻ phải có điều kiện
tiếp cận được giáo pháp. Con đường tiếp cận xảy ra trong môi trường chùa và môi
trường xã hội. Trong đó, môi trường chùa đóng vai trò quyết định. Phụ huynh đóng
vai trò rất quan trọng để giúp con em đến với môi trường chùa. Không có sự quan
tâm của phụ huynh thì mọi giải pháp đều khó thực hiện.
Sự thay đổi cách sinh hoạt của chùa là cần thiết để giới trẻ được đến chùa sinh
hoạt, tu học. Bên cạnh sự nỗ lực của chư Tăng
Ni, các phụ huynh phải có trách nhiệm hướng con em về
chùa.
Nhiều chùa nỗ lực tạo điều kiện cho giới trẻ vui chơi tu học nhưng chưa thành
công vì lý do gọi là “kém hấp dẫn”. Đến với Phật giáo là đến với con đường hướng
thượng nên bao giờ cũng cần cái tâm tu học và sự nỗ lực nhiều hơn. Để giới trẻ
đến với Phật giáo, không có giải pháp hữu hiệu nào mà không có sự trợ duyên của
phụ huynh. Cũng như để trẻ đến trường, không có giải pháp bắt buộc nào bằng sự
bắt buộc của phụ huynh. Vì Phật giáo mang tính tự nguyện nên khi nào phụ huynh ý
thức được giá trị tu học Phật pháp thì khi ấy giới trẻ sẽ đến chùa tu học đông
đảo.
[1]
Theo bài kinh, thiện là nghiệp của thân, khẩu, ý không có thể đưa đến tự
hại, không có thể đưa đến hại người, không có thể đưa đến hại cả hai và
ngược lại đưa đến an lạc, đem đến quả báo an lạc. Bất thiện hay ác là
nghiệp của thân, khẩu, ý đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại
cả hai và đưa đến đau khổ, đưa đến quả báo đau khổ.
[2]
Thích Minh Châu dịch, kinh Tăng
chi tập I, chương năm, phẩm Nam
cư sĩ, mục Gia chủ, (Hà
Nội: Nxb. Tôn Giáo, 2015), tr. 793.
[3]
Hoàng Phê chủ biên, Từ điển tiếng
Việt, (Đà Nẵng: Nxb. Đà Nẵng, 2004), tr.897.
[5]
Chỉ cho cơ sở Phật giáo nói chung.