Trên đỉnh núi, khuất sau những cánh rừng, cây cối um tùm, sau những
phiến đá nằm trơ trọi, bào mòn giữa thời gian, từ nhiều năm nay, đôi
lần du khách lên núi vái Phật bắt gặp một vị tu hành ngồi khiết đà,
nhưng không một ai có thể hiểu tường tận về câu chuyện quá khứ đoạn
tuyệt giang hồ của vị tu hành ẩn danh này.
Băng rừng lên cốc tìm gặp vị tu hành ẩn danh
Men theo triền rừng không một bóng người, tôi cố dò dẫm bám theo
từng lối mòn, lối cỏ mọc, tay bám vào vách núi đầy rêu phong, đôi chân
mỏi nhừ tìm hướng dẫn lên cốc, nơi sư thầy Thích Minh Thủy tu hành.
Đường lên núi Thị Vãi uốn lượn thông đến các dãy núi cao và xa hút
tầm mắt. Tôi thở hồng hộc vượt qua những cung đường ngoằn ngoèo, thỉnh
thoảng lại gặp cơn mưa rừng bất chợt, những đàn muỗi vằn chích đốt. Để
đến được cốc của sư thầy, chúng tôi phải mất gần 5 giờ đồng hồ băng
rừng. Và nếu như không đủ can cảm, khó ai có thể khám phá ngọn núi đầy
bí ẩn này.
|
Con đường dẫn lên đỉnh núi chỉ có vài đoạn được lát đá, còn lại phải luồn lách, băng trong rừng, theo lối mòn. |
Dọc đường lên cốc, không gian tịch liêu, âm u đến đáng sợ. Tiếng
chim bay sải cánh về chiều, muông thú lạo xạo trong các hốc cây, bụi
rậm, tạo cho tôi cảm giác ớn lạnh.
Quanh co gần cả chiều, cuối cùng đến một hẻm núi vắng lạnh, tôi
không thể tin và không thể mường tượng nổi, vị tu hành tuổi đã xế chiều
đã ở nơi đây được hơn 13 năm, quyết gắn chặt cuộc đời mình với cảnh
tịch liêu, tách rời khỏi thế sự trần gian.
Giữa cánh rừng âm u, lớp sương xõa lấp trán, ngay phía trước cốc,
nơi sư thầy đang tu hành, sư Thích Minh Thủy hai chân khoanh hình chữ
ngũ, lưng thẳng như đặt vào điểm tựa, đôi mắt nhắm dần đi vào thinh
không.
|
Phải mất hơn 5 giờ đồng hồ băng rừng, tôi mới có mặt tại cốc nơi sư thầy đang tu hành khi trời đã đặc quánh màn sương |
Mỏm đá cao nhất của đỉnh Thị Vãi, giữa 4 bề chỉ có mây và gió núi,
là sư thầy Minh Thủy chọn làm nơi đặt cốc để tu tập. Sư tự hào ví đây
là điểm nối giữa hai múi trời và đất, nơi chưa thoát trần thế nhưng
cũng chớm đến cảnh tiên.
Sư Minh Thủy có 3 nơi ngồi thiền. Mỏm đầu tiên nằm hướng Đông Bắc
nhỉnh hơn, có thể trông thấy toàn bộ núi non, còn mỏm phía Nam, lớn
nhưng thấp hơn bao quát toàn bộ đất Vũng Tàu.
|
Cốc của sư Thủy đang ngự nằm khuất dưới dãy đá.
|
Trên hai chỏm đá cao ngất ấy, tạo hóa vô tình đặt hai hòn thạch
khổng lồ, nhìn xa trông như đấng tiên ông đang chuẩn bị cáo trần bay về
trời.
Nơi thiền cuối cùng là chiếc hang độc đáo ngay trong nhà. Chỉ vỏn
vẹn lọt thân người, nhưng vào trong ngày nóng vẫn mát như được được phả
hơi nước, ngày lạnh lại ấm như được trùm chăn, nên được sư ví như “cỗ
máy điều hòa” mà tạo hóa ban tặng.
Chỗ sư ngồi thiền, dù trên đá hay trong hang đều nhẵn thín và trơn
bóng như mặt gỗ mun. Gan và mu bàn chân nơi tiếp đất chai lên, cứng như
miểng đá chăm được mài, sư gọi vui, đó là đế dép (ông không đi dép).
Quanh năm chỉ cần một dải áo cà sa màu nghệ, vắt lên thân hình xương
xẩu nom khổ hạnh, vậy mà bao giờ tinh thần sư cũng thanh thản, tươi
cười như đang hoan hỉ trong thế giới cực lạc.
|
Sư thầy Thích Minh Thủy ngồi thiền bên vách đá gần cốc |
Người ta bảo, nếu muốn đạt được dung mạo như thế, chỉ có những ai
chưa từng vấy bụi trần, thành tâm, đồng thời có công năng tu tập lâu
dài mới có được. Thế nhưng, sư Thích Minh Thủy lại như một ngoại lệ.
Trước khi trở thành vị chân tu, ông từng là một kẻ giang hồ chọc trời
khuấy nước, gây bao tội lỗi.
Vết trượt tội lỗi
Ngồi tĩnh lặng trước cốc, hướng đôi mắt xa xăm chiếu vào màn đêm đặc
quánh sương mờ phủ khắp, sư thầy bảo, mỗi lúc tâm hồn còn vướng bận
trần gian, thì đây là cách để lòng xóa đi được ưu phiền, gột rửa tâm
can nhẹ nhàng hơn.
Hồi tưởng lại cuộc đời mình, sư Thủy nhớ đó đã là quá khứ đáng để
quên, vì mỗi khi ai đó hoặc người quen gợi lại, lòng sư cảm thấy đau
xót vì một thời lầm lỡ.
|
Mỗi khi nhớ lại quá khứ của mình, sư thầy day dứt, ân hận vì gây ra quá nhiều tội lỗi |
Sư Thích Minh Thủy có tên khai sinh là Phạm Văn Hưởng, xuất thân
trong gia đình truyền thống nho giáo ở Thái Bình, gia đình di cư vào
Nam lập nghiệp. Cha là thầy đồ, nhà chỉ 2 chị em, nên tuy không phải
thành phần giàu có, nhưng so với các gia đình khác thì nhà Hưởng cũng
thuộc dạng có của ăn của để.
Cha là một người luôn tỏ ra rất nghiêm khắc, rất ý thức cho con cái
học hành đến nơi đến chốn. Đặc biệt, Hưởng là con trai độc, nên luôn là
niềm kỳ vọng của cả gia đình.
Sinh thời người cha luôn quan niệm, bằng mọi cách phải dạy Hưởng
những khuôn phép mẫu mực của đạo nho xưa như: Tam cương (khuôn phép mối
quan hệ Vua- tôi, Cha- con, Vợ- chồng), Ngũ thường (5 đức thường có:
Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín), để làm sao Hưởng trở thành một người hoàn
thiện nhất.
|
Sư thầy Thích Minh Thủy |
Vậy nhưng, ngay từ khi sinh ra, Phạm Văn Hưởng đã là đứa trẻ rất
nghịch ngợm nên thay vì chuyên tâm mài dùi kinh sử, thì Minh Thủy chỉ
vờ vâng dạ trước mặt cho qua chuyện, sau đó là tìm cách tụ tập đám bạn,
thỏa chí ăn chơi.
Chơi nhiều quên học hành, năm lên lớp 10, Hưởng đã biết bỏ nhà đi
bụi. Năm 1970, ngày trường tổ chức kỳ thi tú tài I (để lên lớp 12 ngày
nay) thì Hưởng bỏ đi. Lời cha dặn trước khi nhắm mắt rằng phải học
thành người, Hưởng quên bẵng như gió bay.
Không lâu sau, có lệnh tuyển quân của chính quyền bên kia chiến
tuyến, Hưởng nộp đơn tham gia chỉ với ý nghĩ rất thực dụng vào quân đội
được dùng súng tự do, được học võ để đánh người, đặc biệt được ăn chơi
xả láng.
|
Đến giờ ít người biết được vị tu hành ẩn danh từng có một quá khứ tội lỗi |
Nhưng vào hàng ngũ lính không được bao lâu, Hưởng đã nghiện bạch
phiến, thứ mà binh lính Mỹ mang sang Việt Nam rất phổ biến lúc bấy giờ.
Sư Minh Thủy nhớ lại: “Sư chính thức nghiện hút từ năm đầu tiên nhập
ngũ ở Nha Trang, lúc đó mới 17 tuổi. Cuộc đời sư bắt đầu trượt dài
trong bóng đêm tội lỗi từ đó”.
Kỳ tới: Ngày ấy, sư Thủy từng sống
trượt dài với những tấn trò đời và lặn ngụp trong ma túy rồi dẫn đến
trộm cướp, ngồi tù… nó cứ xô đẩy, tiếp diễn như những hình xăm rồng rắn
chằng chịt ngày càng dày thêm trên thân thể.
Giang Uyên
Theo Infone
Giang hồ tu hành khổ hạnh để hoàn lương
Hai chân khoanh hình chữ ngũ, lưng
thẳng như đặt vào điểm tựa, đôi mắt nhắm dần đi vào thinh không, thiền
sư Thích Minh Thủy chọn cho mình thế ngồi kiết già quen thuộc. Ông tu
hành trên mỏm đá cao nhất của đỉnh Thị Vải (núi Thị Vải, xã Phú Mỹ,
huyện Tân Thành, Vũng Tàu), giữa bốn bề chỉ có mây và gió núi.
Vị sư này tự hào ví đấy là điểm nối
giữa hai múi trời và đất, nơi chưa thoát trần thế nhưng cũng chớm đến
cảnh tiên. Quanh năm, sư Thích Minh Thủy chỉ cần một dải áo cà sa màu
nghệ vắt lên thân hình xương xẩu nom khổ hạnh. Người ta bảo, nếu muốn
đạt được dung mạo như thế chỉ có những ai chưa từng vấy bụi trần, thành
tâm. Thế nhưng, sư Thích Minh Thủy lại như một ngoại lệ. Trước khi trở
thành vị chân tu, ông từng là một kẻ giang hồ chọc trời khuấy nước,
gây bao tội lỗi.
Sư Thích Minh Thủy nói chuyện với PV Người đưa tin
Đào ngũ vì thèm ma túy
Thầy Thích Minh Thủy có tên khai sinh
là Phạm Văn Hưởng, xuất thân trong gia đình truyền thống nho giáo ở
Thái Bình. Cha là ông là một thầy đồ. Gia đình có chỉ có hai chị em.
Tuy không phải thành phần giàu có nhưng so với các gia đình khác thì
nhà thầy Hưởng cũng thuộc dạng có của ăn của để. Cha ông luôn tỏ ra
nghiêm khắc và rất ý thức cho con cái học hành đến nơi đến chốn.
Đặc biệt, Hưởng là con trai độc nên
luôn là niềm kỳ vọng của cả gia đình. Sinh thời, người cha luôn quan
niệm, bằng mọi cách phải dạy Hưởng những khuôn phép mẫu mực của đạo
Nho. Ông hy vọng cậu con trai của mình sẽ trở thành một người hoàn
thiện nhất.
Tuy nhiên, từ nhỏ Phạm Văn Hưởng đã là
đứa trẻ nghịch ngợm. Gia đình càng bắt học bao nhiêu, cậu lại tỏ ra
chống đối bấy nhiêu. Thay vì chuyên tâm mài dùi kinh sử, Hưởng chỉ vờ
vâng dạ trước mặt cho qua chuyện. Sau đó, “nghìn lẽ một kế “ chuồn để
tụ tập đám bạn, thỏa chí ăn chơi. Việc ham chơi bời khiến Hưởng học
hành giảm sút. Năm lên lớp 10, Hưởng đã biết bỏ nhà ra đi bụi.
Năm 1970, ngày trường tổ chức kỳ thi tú
tài (để lên lớp 12 ngày nay), cậu bé bỏ nhà đi chơi mấy ngày. Lời cha
dặn trước khi nhắm mắt, phải học thành người, giờ đây Hưởng quên sạch.
Không lâu sau, có lệnh tuyển quân của chính quyền bên kia chiến tuyến,
Hưởng nộp đơn tham gia với ý nghĩ: Vào quân đội được dùng súng tự do,
được học võ để đánh người.
Vào hàng ngũ lính không lâu, Hưởng đã
nghiện bạch phiến. Đây là thứ mà binh lính Mỹ mang sang Việt Nam dùng
rất phổ biến lúc bấy giờ. Đến bây giờ, sư Thích Minh Thủy nhớ lại: “Tôi
chính thức nghiện hút từ năm đầu tiên nhập ngũ ở Nha Trang, lúc 17
tuổi. Cuộc đời tôi bắt đầu trượt dài trong bóng đêm tội lỗi từ đó”.
Ngày cha mất, Hưởng có quỳ lạy trước
mặt, hứa sẽ vâng lời chị gái, sẽ gắng học hành thành tài. Thế nhưng sau
đó không lâu, hắn như chim sổ lồng, phá luôn rào cản khuôn phép tam
cương, ngũ thường mà cha mình ngày trước ràng buộc.
Vào thời điểm này, phong trào Hip-pi
(phong trào ăn chơi trụy lạc, hưởng thụ theo Chủ nghĩa Hiện sinh) từ Mỹ
du nhập vào lối sống của giới trẻ miền Nam Việt Nam, Hưởng là số thanh
niên “thức thời” và hưởng ứng một cách nhiệt thành. Tuy trong môi
trường quân đội nhưng thực chất Hưởng vẫn được ăn chơi thỏa thê. Các
quán bar, vũ trường nơi nào có khách Tây, hắn đều lui tới. Nhưng thời
gian quân dịch không kéo dài được lâu. Hưởng lại gây chuyện đánh nhau,
phá phách rồi cuối cùng đào ngũ.
Sư Thích Minh Thủy đang ngồi tu tại núi Thị Vải
Từ người ăn học trở thành kẻ cướp
Sau khi mãn án một năm tù treo, chính
quyền lại tiếp tục triệu tập hắn vào quân ngũ. Chị hắn phải mang bán
những khâu trang sức cuối cùng để lo thẻ căn cước (chạy tuổi trốn quân
dịch) cho em mình. Người chị hi vọng rằng được ở nhà, hắn sẽ tu chí
làm. Tuy nhiên, Hưởng ra sức phá phách rồi chuyển sang nghề buôn ma túy
để thỏa mãn cơn nghiện của mình. Từng sống ở các căn cứ quân đội Mỹ
nên hắn biết ở đó nhu cầu dùng ma túy của lính Mỹ rất cao. Anh ta nghĩ:
“Nếu có nguồn cung cấp thì đó sẽ là món lợi kếch sù”. Qua một người
bạn, Hưởng tìm được mối tiêu thụ ở căn cứ hải quân ở Rạch Sỏi (Rạch
Giá, Kiên Giang).
Một tuần 2-3 lần, hắn dùng xe máy riêng
của mình trực tiếp lấy hàng ở Tam Hiệp (Đồng Nai). Những chuyến đi lời
một gấp đôi, tiền bạc trong túi Hưởng luôn rủng rĩnh. Dĩ nhiên, kiếm
được bao nhiêu Hưởng đều “đốt” theo làn khói trắng. Nhớ lại khoảng thời
gian trụy lạc, sư Minh Thủy cho biết: “Khi ấy, thực sự không thứ gì mà
tôi không nhúng vào. Nếu những người nghện họ chỉ dùng chuyên một thứ
thì tôi dùng gấp 3-4 lần”. Vừa rượu chè, vừa ma túy, vừa gái nên hắn
sớm thân tàn ma dại.
Những năm cuối thập kỷ 80, Hưởng đã là
một con nghiện nặng. Ký ức hãi hùng thời đó bây giờ sư Thích Minh Thủy
vẫn chưa thể quên được. Có tiền, Hưởng lại lên đường đi ăn chơi và ra
về khi thân hình xiêu vẹo. Nhìn người em chìm trong guồng quay ma túy,
người chị bao lần khóc đến cạn dòng nước mắt. Chị gái Hưởng quyết định
mai mối cho em trai một tấm vợ với hi vọng, có gia đình hắn sẽ tu tính
nên người.
Nói là lấy vợ, nhưng thực ra, Hưởng chỉ
gật đầu cho qua chuyện. Vợ hắn là một cô gái hiền lành, chịu thương
chịu khó. Thế nhưng, ngựa lại quen đường cũ. Năm lần bảy lượt vợ khóc
hết nước mắt khuyên răn, Hưởng đều gạt phắt. Hắn còn tuyên bố rằng:
“Con mày sinh ra mày nuôi, hơi sức đâu tao lo”. Nói xong, Hưởng đứng
dậy, bỏ nhà ra đi với hai bàn tay trắng.
Những cơn nghiện ngày đêm dày vò thể
xác khiến hắn phải nghĩ kế kiếm tiền. Ngày đó, Hưởng có người bạn tên
là Phước (nay đã chết vì nghiện) ở Hóc Môn (TP. HCM). Người này cũng
thuộc hạng tù tội, phá phách. Gia đình Phước không chịu đựng được nên
từ mặt. Hai con nghiện gặp nhau như cá gặp nước, cùng bày mưu tính kế
dọa người cướp tiền. Phước bán luôn chiếc xe máy của nhà rồi mua một
khẩu súng côn (Con - 9 của Pháp) và hai băng đạn 30 viên với giá hai
cây vàng.
Hưởng là người từng tham gia quân ngũ
nên được phép giữ súng. Sau một hồi ngẫm nghĩ, Phước thủ thỉ, trong ấp
có một đôi vợ chồng suốt ngày đi gom tiền hụi. Cứ vào tờ mờ sáng họ đều
ngang qua khu vực vòng xuay An Sương ghé lại thu tiền. Sau khi nghiên
cứu kỹ địa bàn, một kế hoạch được hai tên nghiện vạch ra. Hưởng sẽ là
người cầm súng. Khi đoạt được túi, lấy được xe, Phước sẽ có nhiệm vụ
lái để cả hai cùng tẩu thoát.
Sáng 13/7/1981, cả hai quyết định hành
động. Trước khi đi, cả hai cùng lên động ma túy quen thuộc ở Hóc Môn
làm một tép lấy dũng khí. Khi đã phê thuốc, cả hai cùng nhau đi bộ đến
địa điểm đôi vợ chồng kia vẫn hay đi qua. Hưởng lận súng vào quần cùng
Phước ngồi bên góc đường nín thở chờ mồi. Một lúc sau, đằng xa có ánh
đèn pha xe máy đang đi tới. Hưởng dụi mắt nhìn rõ, đích thị là đôi vợ
chồng đang mang bịch tiền thu hụi về đang từ xa tiến lại.
Hai vợ chồng vừa dừng xe, Hưởng nhanh
chân bước tới. Một tay rút khẩu súng dấu dưới áo, lên nòng dí vào lưng
của người chồng, rồi miệng uy hiếp. Hắn nhanh tay cướp bọc tiền còn
Phước lao vào dắt xe nổ máy.
Thế nhưng, nhân tính không bằng trời
tính, chiếc xe máy vừa chay được khoảng 10m thì khựng lại vì hết xăng.
Cũng đúng lúc này, đôi vợ chồng hô hoán cầu cứu. Hai tên cướp lúng túng
vứt xe chạy thục mạng vào làng tìm chỗ trốn. Đúng lúc này có hai anh
công an đang đi tuần, thấy vậy lao vào khống chế. Bị dồn vào bước đường
cùng, Hưởng liền rút súng nhằm vào hai đồng chí công an bóp cò, nhưng
rất may lại nhằm phải viên đạn thối.
Thấy cướp có súng, hai người công an
buông ra tránh đạn. Cả hai tiếp tục chạy thục mạng, vào làng thì bị bao
vây, lúc này ma túy trong người cũng tan hết, cẳng chân rũ rượi, người
mềm nhũn. Thấy không thể thoát, Hưởng liền ném súng xuống ao bèo phi
tang, cả hai chấp nhận sa còng.
Kỳ Anh
http://www.nguoiduatin.vn/giang-ho-tu-hanh-kho-hanh-de-hoan-luong-a47487.htm