giống như vùng Dharamshala bên Bắc Ấn. Bên ấy có cả
thiền viện trung ương của người Tây Tạng. Tôi có lần ghé lại mấy ngày,
có lần nghe Ðà Lai Lạt Ma giáo chủ giảng bài. Một thứ tiếng Anh truyền
cảm, trong vắt. Chuyện đã lâu rồi, nhưng nhớ mãi cái giọng ngài.
Còn ở vùng này, đất Nepal, nóc chùa Phật là bảo tháp hình bán cầu,
đặt trên bán cầu là một kiến trúc hình vuông, vẽ cặp mắt Phật. Đấy là
kiến trúc điển hình chùa Phật của Nepal. Nhưng dấu ấn Tây Tạng lại ở
những cái bánh xe cầu nguyện kinh luân khắp xung quanh chùa. Người đến
chùa vừa cầu nguyện vừa đẩy cho bánh xe kinh luân quay tít. Dòng chữ
Phạn khắc trên ấy cứ thế mà quay. Om mani padme hum. Quay mãi.
Bên trong thiền viện có hai nhà sư Nepal đang tỉ mẩn dựng một bức
tranh bằng bơ. Thêm một nét Tây Tạng. Thông thường tranh bằng bơ chỉ có
người Tây Tạng làm. Xứ lạnh cao nguyên. Nước còn đóng băng chứ chưa kể
đến bơ. Bơ cất từ sữa bò, người ta đem nhuộm, nhuộm nhiều màu, rồi dùng
thứ bơ đặc sền sệt làm chất liệu để tạo tác những bức tranh. Tôi chỉ mới
biết đến nghệ thuật tạo tác mandala bằng cát nhuộm màu của Tây Tạng.
Tranh bằng bơ là một điều mới lạ. Thế là tôi sà ngay vào.
Đúng lúc ấy nhà sư Tây Tạng đến. Áo choàng màu nâu đỏ, gần như màu
mận chín, tay nải trên vai. Nhà sư đang ở tuổi thanh niên. Ông chắp hai
tay trước ngực chào hai vị sư Nepal, xin được nghỉ lại. Xong thủ tục
chào hỏi và nhận lời chỉ trong vài phút. Nhà sư Tây Tạng bỏ tay nải
xuống, cũng sà ngay đến bên bức tranh đang dựng. Ông lấy cái bút chứa bơ
màu trắng, tỉ mỉ bơm nó lên trên nền xanh dòng sông có bóng một con
thuyền. Những làn sóng nước màu trắng cứ thế mà lăn tăn chạy ra từ tay
ông. Sóng nhấp nhô.
Ngày hôm sau tôi đã thân với nhà sư Tây Tạng. Ông dạy tôi những động
tác rèn luyện thân thể. Nằm ngửa, dùng lực của thân dưới, đẩy cho hai
chân duỗi thẳng bật lên chỉ hướng lên trời. Đấy là tập cho khớp hông và
xương sống. Hai tay dang ngang bằng vai, cứ thế mà quay toàn thân theo
chiều kim đồng hồ. Đấy là tập cho các luân xa trong thân bừng thức và
chuyển động trở lại sau một giấc ngủ. Quay. Điều cốt yếu là trong khi
quay phải luôn ngắm vào một điểm nào đó làm mốc. Vừa quay vừa nhớ luôn
đưa mắt tìm về cái mốc ấy. Để tránh mất phương hướng. Để tránh mất thăng
bằng. Để tránh chóng mặt và ngã. Quay bảy vòng. Quay chín vòng. Quay
mười lăm vòng. Quay đến hăm mốt vòng. Phải nhớ luôn để mắt xác định được
điểm mốc.
Buổi chiều có năm nhà sư Tây Tạng tìm đến chùa. Những bóng áo cà sa
nâu đỏ đi khắp nơi trong thiền viện. Họ được phép tìm kiếm khắp nơi. Bấy
giờ tôi mới nhận ra nhà sư kia đã biến đâu mất. Năm nhà sư này thuộc
đội duy trì giới luật của một ngôi chùa Tây Tạng, công việc của họ ở
chùa cũng giống như đội quy tắc, đội trật tự trị an trong các làng xóm
phường phố. Không ai hỏi, nhưng đều biết nhà sư đến chùa hôm qua đã phạm
giới luật. Năm nhà sư này đang lùng tìm ông ta.
Các nhà sư vào chùa thỉnh một tiếng chuông bằng chiếc chuông to. Kính
báo về sự hiện diện của họ. Kính báo về việc họ đang làm. Rồi họ tản đi
khắp chính điện, khắp khu giảng đường, khắp khu trai phòng, ký túc xá.
Không rón rén theo kiểu đội đặc nhiệm. Không khom người trước một cánh
cửa hoặc sau một bức tường. Không đưa mắt láo liêng hoặc dỏng tai nghe
ngóng.
Mỗi người một chiếc chuông nhỏ và một cái chày nhỏ bằng gỗ. Nhà sư
cầm chuông trên tay, dùng cái chày miết thành vòng tròn xung quanh vành
chuông. Một âm thanh tròn đều, ban đầu nhỏ, sau to dần lên, cao vút lên,
cho đến khi nó rít lên như một mũi kim đâm thẳng vào màng nhĩ. Không
phải là tiếng chuông binh boong. Không khoan nhặt từng tiếng. Âm thanh
dài, mảnh, triền miên, kéo dài mãi không dứt. Tạo ra tiếng chuông ấy
cũng phải là người trong trạng thái thiền. Chỉ cần nhãng đi một tí, chỉ
cần không đều tay, tiếng chuông căng dài sẽ đứt. Khực một cái. Lúc ấy
người ta phải khởi động lại tay quay xung quanh vành chuông, từ đầu.
Tiếng chuông của năm nhà sư này thì đã thành thiện nghệ. Không một
vết đứt. Nó cứ vi vút quay đều. Cứ kéo căng ra. Ðó là công cụ tìm kiếm.
Nói cho chính xác, đó chỉ là cái chuông cầu nguyện, nhưng các nhà sư đã
phát minh ra cho nó cái tính năng tìm kiếm. Cái sợi dây âm thanh ấy đang
kéo căng ra, nếu vướng phải một vật thể nào đó, một người đang nấp đâu
đó trong góc tối chẳng hạn, âm thanh sẽ mắc lại. Các nhà sư sẽ nhận được
sóng âm thanh dội lại mà phán đoán được chỗ nấp của kẻ bị truy lùng. Ở
đây có cái gì giống như cách loài dơi bay trong đêm tối, vừa bay vừa
phóng ra những sóng âm thanh dò đường, nếu gặp vật cản, âm thanh sẽ dội
ngược lại, con dơi nhận được sóng dội lại mà bay tránh đi, không đâm vào
vật cản.
Vi vút vi vút. Những chùm âm thanh cứ thế được phóng ra. Viiiiiiiii.
Vuuuuuuuuu. Từng sợi dây một được thả ra, kéo căng ra. Tiếng chuông chạm
vào tượng vào chuông vào nến. Tiếng chuông dội lại khi chạm vào những
bức tường là bích họa kể chuyện đời Phật. Chuông chạm vào vật bằng gỗ,
bằng kim khí, vào tường gạch tường đá, vào lá vào cây. Mọi vật thể đều
được xác định. Mọi thứ đều không qua được mắt năm nhà sư. Không qua được
thính giác họ. Viiiiiiiii. Vuuuuuuuuu.
Cuộc tìm kiếm kết thúc. Nhà sư kia đã biến mất. Năm nhà sư vào chính điện, đánh một tiếng chuông kính cáo rồi xin phép ra đi.
Nửa giờ sau khi đội giới luật đã đi rồi, nhà sư kia xuất hiện. Ông đã
thay chiếc áo cà sa bằng bộ trang phục của thường dân, trông như một
thanh niên Tây Tạng hoặc Nepal. Chiếc áo cà sa ông vừa giặt đang phơi
phía sau chùa. Chắc là ông vừa nấp ở một chỗ ô uế lắm và sau khi chui
ra, ông phải đi giặt ngay.
Như đọc được ý nghĩ của tôi, ông bảo một nhà sư không có gì phải nấp
phải trốn, nhưng một khi buộc phải nấp trong một nơi dù ướp đầy mùi trầm
chẳng hạn, thì chiếc áo khi ấy không còn sạch nữa. Phải giặt. Thân thể
khi ấy không sạch nữa. Phải tắm gội. Tâm khi ấy phải được tự thanh tẩy.
Vậy là lúc nãy ông đã trốn trong một nơi đặc biệt lắm, đến mức tiếng
chuông nọ đã không thể len vào ngóc ngách ấy được? Nói cho đúng, có hai
vị sư đã đi qua cái ngách ấy, đã đều tay quay chuông, ông phải nằm im
như một tử thi trong ngách tối. Hầu như không còn hơi thở, không còn sự
sống trong mấy phút ấy.
Tôi lại hỏi chắc ông phạm lỗi gì nghiêm trọng lắm, khiến cả một nửa tiểu đội giới luật phải lùng tìm?
Có đấy, nhà sư thừa nhận thành thực. Ông chỉ tay vào ngọn tháp chùa
bảo, sáng nay khi hướng dẫn tôi cách tập quay nhiều vòng, ông thấy tôi
ngắm vào ngọn tháp. Lấy cặp mắt Phật phía trên tháp làm mốc. Phía trên
cái kiến trúc hình vuông vẽ cặp mắt Phật “nhìn thấu mọi lẽ đời” là ngọn
tháp hình xoáy trôn ốc mười ba nấc, tượng trưng cho mười ba bậc đi tới
giác ngộ. Nhưng ở phía dưới ngọn tháp, cùng với hình vẽ cặp mắt Phật có
một nét vẽ mà ai cũng tưởng là mũi Phật. Tôi cũng tưởng vậy. Nhà sư bây
giờ mới cười bảo không phải. Cặp mắt Phật đã được vẽ theo phương pháp
cách điệu, không cần vẽ miệng, thế thì việc gì người ta lại phải vẽ thêm
cái mũi. Vậy, đó không phải là cái mũi. Ðó là số một theo mẫu tự Nepal.
Số một. Hàm ý con đường duy nhất để được khai minh là con đường mà Ðức
Phật đã chỉ ra.
Tôi đã lấy con số một ấy làm mốc khi tập quay tròn. Còn nhà sư này,
trong một cuộc thảo luận lý thuyết tại thiền viện của mình, ông đã sa
vào tranh luận nảy lửa với các pháp hữu. Một cái gì nghiêm túc lắm,
nghiêm trọng lắm mà ông không diễn đạt ra với tôi. Chỉ là tranh luận mà
một người phải bỏ ra đi. Chỉ là lời lẽ mà một người phải bỏ ra đi. Không
có xúc phạm, không có khiêu khích, không có gây tổn thương. Chỉ là
người đi thấy rằng mình phải tự trừng phạt, phải tự lấy làm hổ thẹn mà
ra đi.
Sáng hôm sau tôi rời chùa. Trùng hợp, nhà sư nọ cũng tay nải ra đi.
Ông mặc lại chiếc áo cà sa màu nâu đỏ đã giặt sạch. Chúng tôi đi bộ một
đoạn đường xuống núi.
Từ đấy mới bắt xe khách đi tiếp. Ông kể rằng hôm qua lúc nằm trốn
trong một ngách chùa, ông biết có hai nhà sư giới luật đã tìm kiếm xung
quanh cái ngách ấy. Họ đi qua và đều tay quay chuông. Viiiiiiiii.
Vuuuuuuuuu. Tiếng chuông đã va phải người ông. Khực một cái. Ông nằm
trốn vẫn nghe thấy. Vị sư thứ hai ở cách đó một quãng cũng nghe thấy. Vị
sư quay chuông đi ra lẩm bẩm với người kia, xin pháp hữu thứ lỗi, ta
phân tâm, làm lỡ một nhịp chuông. Vị sư thứ hai không nói gì, bước vào
thay, lại đều tay quay chuông. Viiiiiiiii. Vuuuuuuuuu. Tiếng chuông này
cũng va phải người đang trốn. Khực một cái. Ông ta lại quay ra, nói như
xin lỗi, ta cũng phân tâm, ta cũng lỡ một nhịp chuông.
Người nằm trốn thì biết. Không có chuyện lỡ nhịp gì ở đây cả. Hai vị
sư kia đã tìm ra. Nhiệm vụ của đội giới luật là phải đi tìm. Có người bỏ
trốn thì phải có người đi tìm. Tìm bằng được. Nhưng ngay cả khi tìm
được thì tìm được cũng không có nghĩa là bắt.
Con đường xuống núi thênh thang. Dãy Himalaya những đỉnh núi tuyết
vĩnh cửu sáng bừng trong nắng vàng mật ong. Chuyện trò nhiều nên đường
ngắn lại.
Nhà sư lại nhắc tôi khi mới tập quay vòng tròn phải luôn nhớ xác định
một điểm mốc. Không thì sẽ ngã. Hôm qua tôi đã phải lấy mốc là con số
một trên tháp chùa mà tôi tưởng là mũi Phật. Con số một. Nhưng nhà sư
bảo nhiều người đã tập cho đến khi không còn nhìn thấy một nữa. Không
cần mốc nữa. Họ đã quay quanh thân, khi ấy họ lấy thân mình làm trụ, mắt
vẫn mở mà không cần tìm về điểm mốc. Không nhìn con số một nữa. Không
còn cái duy nhất nữa. Chỉ còn không.
Tôi định hỏi nhà sư bỏ đi rồi thì sẽ đi đâu. Rồi tôi không hỏi, câu
trả lời sẽ không có gì lạ. Phật tử dù có đi bất cứ nơi đâu thì dưới gầm
trời này cũng không có chỗ nào ở bên ngoài cửa Phật.
Đến bến xe ở chân núi, chúng tôi chia tay.■
Tạp Chí Văn Hoá Phật Giáo 127 | Truyện ngắn của HỒ ANH THÁI