Câu tục ngữ trên gồm 2 về đối nhau trẻ đối với già, nhà đối với chùa.
Ông bà xưa có cái nhìn rất thấu đáo và hay hơn diễn dịch những điều
tưởng như phức tạp hết sức đơn giản.
|
Giới trẻ ngày nay đến chùa nhiều đã trở thành một xu hướng trong cộng đồng |
Trẻ đây tất nhiên không phải là trẻ con mà tuổi trẻ. Nhà ở đây là căn
nhà nhưng nhìn rộng hơn nó còn là gia đình chỗ dựa của mỗi người trong
cuộc sống. Tuổi trẻ có cái nhiệt huyết sôi nổi muốn cống hiến, đóng góp
cho đất nước, xã hội. Chính vì vậy mà nhà Nho Nguyễn Công Trứ đã có
những câu thơ đầy khẳng khái.
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
Gia đình luôn luôn là chỗ dựa vững chắc cho công danh, sự nghiệp. Cho
nên niềm vui của người trẻ tuổi là tình yêu, bếp lửa nơi gia đình.
Trái lại với tuổi già, khi con cái đã lớn thành gia lập thất và có gia
đình yên ổn thì họ lại cảm thấy cô đơn vì ít được đi đây đi đó, ít tham
gia các hoạt động xã hội. Hơn nữa lúc này khi trải qua nhiều năm chiêm
nghiệm về cuộc sống họ có cái nhìn thấu suốt hơn và tìm được niềm vui
của cuộc sống nơi thiền môn. Họ hiểu rằng cuộc sống nơi thiền môn tuy
đạm bạc mà không chán, có cái nét đẹp đơn giản mà thâm thúy. Cái duyên
ngầm đó của đạo Phật không phải ai cũng thấy, cũng phải ai cũng cảm nhận
được.
Phân tích thêm một chút về hình ảnh ngôi chùa trong lòng người dân Việt.
Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời với tổ tông
Quả thật như vậy, nếu như đình làng là nơi bàn luận việc chung của
làng, nơi những người trẻ có tiếng nói với làng xã thì ngôi chùa lại
lặng lẽ khép mình vào hình sống thế núi, trầm mặc im lìm một góc làng.
Im lìm đó không phải là tiêu cực là nép mình, trốn đời mà đang ầm thầm
chắt chiu những tâm hồn, nó nuôi dưỡng và giữ gìn những giá trị đạo đức.
Tiếng trống đình là biểu tượng của hội họp của vui chơi thì tiếng trống
bát nhã nơi mái chùa, tiếng chuông thanh thoát ngân nga mỗi buổi sáng
sớm kêu gọi mọi người quay về với tâm hồn với cha ông với tổ tiên ông bà
với phật tánh cội nguồn dân tộc…
Như đã nói ở trên câu tục ngữ này chỉ phản ánh thực tế, và như phân
tích nó phản ánh hoàn toàn chính xác tình hình thực tế của xã hội. Tuy
nhiên nó cũng cho thấy khuynh hướng xã hội khi xem nhẹ hình ảnh người
già, xem nhẹ mái chùa trong cuộc sống xã hội.
Phật giáo có câu: “chớ hẹn tuổi già mới lo học đạo, mồ hoang lắm kẻ
tuổi xuân” là để chỉ cho mọi người thấy rằng vô thường chi phối cuộc
sống, hành đạo cứ sao phải đến tuổi già mới nên?!
Người viết bài này đã từng hỏi rất nhiều bạn bè – những người trẻ - về ý
nghĩa của “tu” và “đạo”… đa số họ không biết. Họ đồng hóa giữa tôn giáo
và đạo, họ nghĩ “tu” là phải cạo đầu vào chùa tụng kinh gõ mõ.
Hiển nhiên do họ chưa hiểu, chưa hiểu thì chưa thương, chưa thương thì làm sao chấp nhận khép mình vào “đạo”.
Trong nguyên nghĩa đạo là con đường, đạo Phật là con đường đi theo dấu
chân đức Phật để từng bước từng bước khám phá chính mình, để tu học sửa
mình từng chút từng chút một. Tu là sửa, vậy thì hoàn cảnh nào mà không
tu được, không sửa mình được. Người già vui chùa là vui cái thú tu sửa
chính bản thân mình, là trở về tự thân, người trẻ vui nhà là tìm kiếm
tình cảm nơi tha nhân. Bởi họ không biết rằng hạnh phúc không phải nơi
tha nhân mà ở tự tâm.
Hiểu được như vậy mới thấy rằng cái định kiến của xã hội về việc học đạo, tu đạo còn rất nặng nề.
Là người phật tử trẻ nhận thức rõ được tình hình thực tế xã hội, lại có
duyên lành tiếp xúc với Phật pháp, được thọ quy y, trì ngũ giới thì
phải gánh lấy cái trách nhiệm phá tan những định kiến lệch lạc của xã
hội. Đó không chỉ là việc làm phụng sự xã hội, phụng sự đạo pháp mà còn
là phụng sự cho hạnh phúc con người nói chung.
Đừng trách vì sao giới trẻ ngày nay vô tâm với cội nguồn dân tộc, đừng
trách vì sao giới trẻ ngày nay không biết tu, không biết đến mái chùa mà
hãy trách lại bản thân mình có làm tốt công tác giáo dục hay chưa có
đem được giáo lý nhiệm mầu của chư Phật đến cho mọi người hay chưa?
Khác hằn với tất cả các hệ thống triết lý và tôn giáo trên thế giới,
đạo Phật – tự bản chất lẫn hiện tượng – vừa là một hệ thống triết lý vừa
là một hình trạng tôn giáo hoàn chỉnh với sự kết hợp hài hòa giữa tín
điều và tín lý. Giữa cuộc đời, đức Phật là một vị thầy, một bậc Giác
Ngộ. Còn người theo đạo Phật là những người luôn luôn tỉnh thức để làm
chủ lấy mình, không giao trọn số phận của mình cho sự định đoạt của một
đấng quyền năng tuyệt đối nào cả. Người phật tử trẻ phải là chiếc cầu
tượng trưng nối giữa đạo và đời, giữa quý tăng ni và mọi người.
Muốn làm được điều đó người phật tử trẻ phải làm tròn bổn phận của mình
đối với gia đình và cảm hóa được gia đình. Người phật tử trẻ ngoài bổn
phận của vị trí con người trong gia đình có khi là cha mẹ anh chị chồng
vợ… thì phải thêm cái bổn phận của phật tử.
Bổn phận cao cả nhất của người phật tử là truyền bá phật pháp cảm hóa
gia đình để mỗi người trong gia đình biết phật pháp, hiểu phật pháp và
hành theo phật pháp. Khi đó gia đình đã thấm nhuần phật pháp đã bát ngát
mùi hương Hoa Đàm thì người phật tử trẻ phải tiến thêm một bước nữa đi
từ gia đình riêng đến gia đình chung, từ cá nhân đến xã hội.
Trong kinh luận đã không ít lần nhắc đến bổn phận phục vụ xã hội này.
Kinh Hoa Nghiêm nói “xem tất cả đàn ông là cha, tất cả đàn bà là mẹ”.
Kinh Tứ Thập Nhị Chương cũng dạy “xem người lớn như cha mẹ, xem người
nhỏ như anh em, chị em mà sinh tâm tế độ”.
Xem người lớn như cha mẹ, xem người nhỏ như anh em, chị em mà sinh tâm
tế độ”. Nhưng bổn phận này được nhắc một cách thiết thực mà lý luận vững
vàng nhất trong kinh Thiện Sinh và kinh Ưu Bà Tắc – đây chính là hai bộ
kinh chỉ nam cho đời sống của người phật tử tại gia. Hai kinh ấy đều
nói: “Phía sau con người là cha mẹ, phía trước con người là vợ con, phía
mặt con người là thầy bạn, phía trái con người là giúp đỡ, phía trên
con người là Chư Tăng, phía dưới con người là bà con; đối lại, con người
phải làm tròn bổn phận con người, làm chồng, vợ, học trò, ông chủ, hay
người chịu ơn giáo hóa người đều là cùng một huyết thống”.
Từ kinh điển cho thấy đối với người phật tử xã hội có vai trò quan
trọng như thế nào. Theo lý duyên sinh vạn vật nương nhau mà có mặt.
Nguyên ủy của một vật là vạn vật. Không bao giờ một nhân đưa tới một
quả. Nhân quả là trùng trùng. Bởi thế con chó giữ nhà, con bò cày ruộng,
cũng là sự tương quan sinh tồn của con người, hệ trọng như con người
với con người vậy.
Cho nên người phật tử trẻ hiện đại phải xác nhận một cách sâu sắc rằng
trong lẽ tương quan sinh tồn ấy, xã hội là đại gia đình của mình, đời
sống của mình là thừa hưởng trực hay gián tiếp của xã hội thì phải đem
đời sống ấy mà trực hay gián tiếp giúp ích cho xã hội.
Muốn làm được việc đem phật pháp tiếp cận với những người trẻ, những
bạn bè trong cuộc sống trong công ty trong những mối quan hệ xã hội để
làm sao người trẻ không phải chỉ biết “vui nhà” mà còn biết “vui chùa”
biết tu sửa bản thân mỗi người thì người phật tử trẻ phải áp dụng phật
pháp vào đời sống của mình. Đó là công việc căn bản vì phật pháp gọi là
còn không phải còn ở ngoài chúng ta mà phải ở chính trong con người.
Phật pháp muốn được duy trì thì phải phổ biến ra cho mọi tầng lớp và
cho các thế hệ sau, muốn vậy quy tắc thân giáo là không thể thiếu được.
Không có sự lợi tha nào đúng nghĩa mà thiếu tự lợi, tức là tự mình áp
dụng phật pháp trước hết; hay đổi lại cũng chẳng có một sự tự lợi nào
đúng nghĩa của danh từ ấy mà không vì mục đích lợi tha, tức là vì lơi
chung mà áp dụng phật pháp.
Như vậy, dưới cái nhìn của một phật tử trẻ ta thấy câu tục ngữ “trẻ vui
nhà, già vui chùa” của ông bà ta khi xa đã phản ánh rất chính xác tình
hình thực tế xã hội.
Điều này rất phù hợp với tâm sinh lý hoàn cảnh của lớp trẻ cũng như
người già. Khuynh hướng này là phổ biến và từ khuynh hướng này dẫn tới
việc xem nhẹ vị trí người già trong gia đình, ngôi chùa trong tâm linh
người dân Việt.
Trong xã hội hiện đại, những giá trị truyền thống dân tộc cao đẹp đang
từng bước từng bước bị một nền văn hóa du nhập xa lạ xâm chiếm. Việc bảo
tồn giữ gìn những nét đẹp “muôn đời với tổ tông” là cần thiết và người
gánh lấy trách nhiệm này không ai khác là người phật tử trẻ.
Phật tử trẻ có đầy đủ những điều kiện để làm việc này vì có một nền
tảng phật pháp vững chắc, có kiến thức và tiếp cận được với cuộc sống
hiện đại. Để làm được điều này phật tử trẻ phải biết phát huy phật pháp
bằng cách sống cuộc đời phạm hạnh, thông qua đó hoán cải gia đình rồi xã
hội. Làm được điều này chính là phụng sự cho đạo pháp, dân tộc và cho
hạnh phúc con người.