trên thế giới viết ra cho nên bài của tôi không có gì
mới lạ, chỉ là một hạt cát trong số cát của Sông Hằng.
Nếu nói thế thì tại sao tôi lại
viết? Theo tôi, mỗi người có một hoàn cảnh sống khác nhau, kinh qua những giai
đoạn lịch sử khác nhau, đối diện với những khổ đau, hạnh phúc khác nhau cho nên
“tâm tình” dàn trải có thể khác nhau và đến với Đạo Phật trong những cảnh ngộ
khác nhau.
Cùng chung với số phận của dân tộc,
Phật Giáo bị miệt thị, dày xéo trong suốt 80 đô hộ của Thực Dân Pháp. Rồi sau
Thế Chiến II chấm dứt vào năm 1945, Việt Nam lại triền miên khói lửa. Chiến
tranh chỉ chấm dứt năm 1975. Thử hỏi trong bối cảnh dân tộc tan tác, chùa chiền
đổ nát, nhân tâm ly tán, thế lực ngoại bang đổ vào xâu xé đất nước, kéo dài
thêm 30 năm, truyền thống, văn hóa dân tộc và Đạo Phật không tiêu vong kể cũng
là chuyện lạ lùng. Chúng ta hãy nghe Hòa Thượng Thích Đức Nhuận, trong Đạo
Phật và Dòng Sử Việt viết “ Và,
sau 83 năm Pháp cai trị nước ta, Đạo Phật quốc gia Việt Nam chỉ được coi như
một “tôn giáo bản địa”, bị gạt ra ngoài mọi sinh hoạt tập thể của quốc gia này.
Chính quyền bảo hộ của người Pháp ra mặt nâng đỡ Thiên Chúa giáo và kỳ thị, đàn
áp Phật giáo, không cho phát triển. Như việc kiểm tra tăng chúng, việc dựng
chùa phải có giấy phép, có được mới được xây cất; việc hạn chế nhà chùa, không
được tạo mãi đất đai hay nhận của cải của thập phương hỷ cúng. Với chính sách
hủ hóa dân tộc ta, thực dân Pháp đã rất rộng rãi với những gì là mê tín dị
đoan, hạn chế giáo dục, cốt làm cho dân ta ngu dốt để chúng bảo sao tin vậy;
Đạo Phật cũng bị đồng hóa với những tà thuyết ngoại đạo… Rồi từ chỗ xa lìa
chính pháp, Đạo Phật nghiễm nhiên trở thành như một thần đạo không hơn không
kém. Mục đích của thực dân, như đã thấy, là sự thống trị đất nước này và không
muốn cho dân tộc trở mình để lớn mạnh. Nhưng, sau gần một thế kỷ bị trị, và sau
trận thế chiến thứ hai chấm dứt, dân tộc Việt cùng với các dân tộc nhược tiểu
khác trên thế giới đã bừng tỉnh đứng dậy, giải phóng ách nô lệ cho con người và
giành quyền độc lập tự chủ cho quốc gia, chấm dứt một chế độ lạc hậu, lỗi thời. “ (1) Trong bối cảnh tang thương của
đất nước và dân tộc như thế, tại sao “gốc
Phật Giáo” trong tôi không bị bứng đi mà lại có thể “gặp lại” Phật... và trong hoàn cảnh như thế nào ?
Tôi sinh ra ở Hải Phòng năm 1942. Năm 1945 khi Nhật chiếm đóng Việt Nam,
hằng ngày, vào mỗi buổi sáng mẹ tôi phải cõng tôi chạy vào hầm trú ẩn khi tiếng
còi báo động vang lên để tránh máy bay của Mỹ (Đồng Minh) từ Vịnh Bắc Bộ bay
vào oanh tạc. Khi Nhật đầu hàng, dù mới ba tuổi tôi còn nhớ hình dáng của đoàn
quân Lư Hán lôi thôi lếch thếch tiến vào đất nước ta giải giới quân đội Nhật.
Rồi khi quân Lư Hán rút lui, Pháp trở lại tái chiếm Đông Dương năm 1946, cùng
với toàn dân, cha mẹ tôi nghe theo tiếng gọi “tiêu thổ kháng chiến ”
bỏ cả nhà cửa, chạy ra vùng “hậu phương kháng chiến” và năm 1950 quay trở
lại Hải Phòng trước cảnh căn nhà cũ chỉ còn là một đống hoang tàn đổ nát. Đây
là lần đầu tiên tôi thấu hiểu câu “màn trời chiếu đất”. Bố mẹ tôi và anh chị em
phải nhặt lại từng cục gạch, hái từng cọng rau muống mọc dại trên nền nhà nấu
ăn trong những ngày túng thiếu lúc ban đầu. Rồi cuộc sống từ từ ổn định, tôi
được cắp sách đến trường.
Về cuộc sống tâm linh, phải nói, bố mẹ tôi không hề biết Đạo Phật là gì.
Bàn thờ chỉ để cúng giỗ ông nội tôi, chứ không thờ Phật. Bà nội tôi, theo Tứ
Phủ tức Đồng Bóng hay Đạo Mẫu. Trên điện thì thờ các quan lớn, mẫu, ông hoàng
rồi đến các cô, cậu, dưới là ngũ hổ. Tuy nhiên trên cao nhất, may mắn vẫn thờ
Phật. Dĩ nhiên bà nội tôi không phải là tín đồ Phật Giáo hoặc là một Phật tử
hiểu theo đúng nghĩa ngày nay. Thế nhưng có lẽ để cầu phúc, thỉnh thoảng bà nội
bảo tôi tụng Kinh A Di Đà. Như vậy tôi đã có dịp “gieo duyên” với Phật pháp từ
lúc 8,9,10 tuổi. Nhưng thực ra tôi có ngồi tụng kinh, gõ mõ cũng chỉ mong bà
nội cho oản, chuối chứ thật tình tôi chẳng hiểu Kinh A Di Đà nói gì. Thật lạ
lùng, trong chương trình Tiểu Học lúc bấy giờ, dù môn lịch sử được giảng dạy
nhưng không có môn nào nói đến lịch sử các tôn giáo có mặt tại Việt Nam, nhất
là Phật Giáo đã hiện diện trên đất nước này trên 1500 năm với một quá khứ huy
hoàng. Tất cả kiến thức về Đạo Phật mà tôi biết được lúc bấy giờ là nhờ lúc
rảnh rỗi bà nội kể chuyện đi Chùa Hương lúc bà nội còn trẻ, chuyện Bà Công Chúa
Ba tức Quan Âm Diệu Thiện, chuyện Quan Âm Thị Kính với hai câu thơ bà nội đọc
cho mà tôi còn nhớ:
Tiểu
Kính Tâm lấy chồng Thiện Sĩ.
Tỉa
râu chồng mang tiếng bội phu.
và nhất là
Tây Du Ký kể chuyện Tam Tạng đi thỉnh kinh mà bọn trẻ chúng tôi
phải “thuê truyện” để đọc, dĩ nhiên đọc
say mê.
Năm 1954 khi đất nước chia đôi, gia
đình tôi vào Nam. Sau một vài năm thì cuộc sống của người “di cư” cũng ổn định.
Từ một người không hề biết thần thánh là gì - mẹ tôi - không hiểu do một phúc
duyên nào, cùng với một bà bạn hàng xóm thường xuyên đi lễ Chùa Phổ Quang - Phú
Nhuận. Sau một thời gian hết sức kiên nhẫn thuyết phục bố tôi đi chùa, bàn thờ
Phật được thiết lập trang nghiêm ở nhà. Tuy nhiên kiến thức Phật Giáo của tôi
lúc này hoàn toàn là con số không cho đến ngày 1/11/1963.
Sau khi quân đội đứng lên làm cuộc đảo chính lật đổ chế độ độc tài gia đình
trị, đàn áp tôn giáo của Ngô Triều, Phật Giáo như một thân cây khô héo sau mùa
đông dài hiu hắt, được kích thích bởi nắng xuân ấm áp bỗng đâm chồi nảy lộc. “Ý thức Phật Giáo” tưởng chừng như đã tàn lụi
trong lòng dân tộc, bỗng bừng lên trong lòng mọi người, nhất là tầng lớp thanh
niên, sinh viên. Gia đình tôi nghèo, cư ngụ tại khu lao động, nhà tôn vách ván
cho nên buổi trưa nóng nực, vả lại tiếng máy thu thanh (radio) của hàng xóm lúc
nào cũng oang oang cho nên ngoài thời gian ở giảng đường Luật Khoa, tôi thường
vào các thư viện, dưới những tàng cây ở công viên hoặc sân chùa để có một nơi
yên tĩnh học bài. Chính tại sân Chùa Xá Lợi (Sài Gòn) tôi đã gặp một “báu vật”
khai mở trí tuệ cho tôi, đó là bài pháp của Đại Đức Narada Maha Thera (2). Sau
Pháp Nạn 1963, tăm tiếng của Phật Giáo Việt Nam vang xa. Thế giới Tây Phương
nhất là người Mỹ mới chưng hửng, tưởng đâu xứ sở này là Thiên Chúa Giáo, ngờ
đâu 90% là Phật Giáo. Quý hòa thượng, thượng tọa lãnh đạo Phật Giáo Miền Nam lúc
bấy giờ đã cho mời một số cao tăng trên thế giới tới thuyết giảng, trong đó có
Đại Đức Narada đến từ Tích Lan. Chính tại ngôi Chùa Xá Lợi này, tôi nhặt được
một cuốn sách nhỏ (booklet) nhan đề Cốt Tủy Của Đạo Phật của Ngài. Nội
dung cuốn sách thật ngắn gọn nhưng đầy đủ và thuyết phục trong đó có một câu
nói của Đức Phật, “Kinh giáo của ta như ngón tay chỉ mặt trăng”. Vừa đọc xong câu
này, tôi vội xếp cuốn sách lại và trong tôi bừng vỡ một niềm sung sướng và cảm
phục, “Trời ơi, sao ông Phật này chân thật quá!”
Với kiến thức về tôn giáo của tôi - một sinh viên sắp bước lên năm thứ hai
của Đại Học Luật Khoa Sài Gòn lúc bấy giờ thì...đối với các đạo thờ thần (God),
không có một thứ gì không thuộc về vị giáo chủ. Vũ trụ này do Ta sáng tạo. Ánh
sáng này do Ta mà có. Bóng tối cũng thuộc về Ta. Cả cái trí khôn hay trí tuệ
của loài người cũng do Ta mà có. Nếu không có Ta thì đầu óc loài người cũng như
đầu óc thú vật mà thôi. Chân lý ở trong Ta. Ta là hiện thân của công lý. Miếng
cơm manh áo mà các người đang ăn, đang mặc kia cũng do Ta mà có. Vợ con nhà
ngươi cũng do Ta sắp đặt hết. Ta bảo chết là chết, bảo sống là sống. Nói
tóm lại, loài người trần trụi, không có một thứ gì hết. Tất cả thuộc về
thần linh giáo chủ. Trong khi đó thì ngược lại, Đức Phật không “vơ
vào” những gì không phải của mình. Luật Vô Thường không phải của Đức
Phật. Sinh-Lão-Bệnh-Tử không do Phật bày ra. Cái Chết không do Phật thiết kế. Niết
Bàn không phải là đặc hữu của Phật mà bất cứ chúng sinh nào, nếu chịu nương
theo giáo lý của Chư Phật (nương theo
ngón tay) thì cũng đạt được Niết Bàn (tức
thấy mặt trăng). Cuộc sống vui, buồn, sướng, khổ của thế giới này không
phải do Phật hóa phép, mà do nghiệp lực vận chuyển từ vô thủy của chúng sinh.
Trước khi Phật ra đời con chim ăn con sâu. Khi Đức Phật ra đời con chim tiếp
tục ăn con sâu. Khi Đức Phật thành đạo con chim vẫn ăn con sâu. Khi Đức Phật
nhập diệt con chim vẫn ăn con sâu. Tất cả đều Như Thị và Như
Thị. Đức Phật không thể thay đổi được thế giới vật lý này. Đức Phật
không dạy cách “di sơn đảo hải”, biến cát thành cơm, biến người chết thành
người sống, biến tội ác thành thánh, biến kẻ đui mù thành mắt sáng, biến kẻ què
cụt thành lành lặn…mà Đức Phật chỉ dạy phương pháp khiến con người
thoát khỏi khổ đau và sống một cuộc đời thánh thiện. Cái gì của Phật A
Di Đà thì Phật nói đó là của Phật Di Đà, cái gì của Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát
thì Phật nói của Địa Tạng Vương Bồ Tát. Cái gì của Ngài Quán Tự Tại Bố Tát thì
Đức Phật nói của Ngài Quán Tự Tại. Đức Phật cũng không chủ trương đời đời độc
quyền thống ngự thế giới. Trong quá khứ đã có nhiều vị Phật thuyết pháp độ
sinh, trong tương lai sẽ có Phật Di Lặc ra đời. Đức Phật luôn luôn nói lời
chánh ngữ, nói lời chân thật (quảng trường thiệt). Đức Phật không bao giờ nói
lời lừa mị, nói lời gian dối, nói lời hoang tưởng, nói lời không thể kiểm chứng,
và cũng không nói lời tiên tri phỏng đoán vu vơ. Đức Phật không bao giờ nói hai
lời, lúc rày lúc khác. Đức Phật không bao giờ nói lời mâu thuẫn trái-chống
nhau. Đức Phật không bao giờ tự phong mình là quan tòa để phán xử ai. Ngài chỉ
nói về Nhân Quả chứ không bao giờ đe dọa trừng phạt ai. Kinh giáo của Đức Phật
dù trải qua hơn 2500 năm không bao giờ phải sửa chữa, thay đổi cho hợp thời thế.
Các giáo hội Phật Giáo trên toàn thế giới cũng chẳng bao giờ phải tạ lỗi với nhân
loại về những tội ác hoặc những sai lầm gây tạo trong quá khứ.
Thưa các bạn,
Vậy thì yếu tố đầu tiên tôi đến với
Đạo Phật là vì thấy “Ông Phật” là con người thành thật. Giáo lý của Ngài là
giáo lý chân thật. Ý nghĩ của Ngài là ý nghĩ thành thật. Theo tôi, Chân Thật
(honesty) là tiêu chuẩn đạo đức cao nhất. Thiếu thành thật, xa rời sự thật, phản lại
sự thật, che dấu sự thật thì mọi giá trị
đều sụp đổ kể cả những gì gọi là linh thiêng, thánh thiện.
Với lời phi lộ như thế tôi xin mời
quý bạn tiến vào ngôi nhà Phật Giáo. Dĩ nhiên khi tiến sâu vào Đạo Phật các bạn
sẽ thấy Chân Thật không phải là đức tính duy nhất của Đức Phật, mà Ngài còn có
bao nhiêu đức tính tốt đẹp khác (Minh Hạnh Túc) mà thế gian này không một ai có
thể đạt được. Trong một rừng giáo lý của Đức Phật dày gấp 11 lần cuốn Kinh
Thánh của Ky Tô Giáo, tôi phải lựa chọn cái gì để tâm tình với các bạn đây?
Noi gương các bậc thiện tri thức và thánh
tăng chẳng hạn như Ngài Narada và Đức Đạt Lai Lạt Ma, thường nói chuyện với các
bạn trẻ về Bát Chánh Đạo, tôi cũng dùng Bát Chánh Đạo để thưa chuyện với các
bạn. Tiêu chuẩn của tôi là: Nếu Bát
Chánh Đạo làm cản trở, hoặc chướng ngại hoặc không giúp ích gì cho các bạn trên
con đường học hành, tiến thân, tạo lập sự nghiệp và hạnh phúc gia đình...thì
xin các bạn đừng nghe và đừng tin theo Đạo Phật. Tôi sẽ dùng ngay xã hội Hoa Kỳ
là nơi mà hầu hết các bạn trẻ trên thế giới ngưỡng mộ, mong muốn và thèm khát
(ngoại trừ các bạn trẻ ở Bắc Âu) để ứng dụng Bát Chánh Đạo chứ không phải chỉ
gò bó các bạn trong khuôn khổ của các quốc gia chậm tiến, nghèo khổ để quảng
cáo về Bát Chánh Đạo. Vậy Bát Chánh Đạo là gì ?
Bát Chánh Đạo là tám con
đường tốt lành, chân chính, đúng đắn nhầt để con người sống hạnh phúc và cao
thượng. Bát Chánh Đạo gồm có: Chánh Mệnh, Chánh Nghiệp, Chánh Kiến, Chánh
Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định.
1. Chánh Mệnh:
Chánh Mệnh là yêu mến mạng sống của
mình, yêu mến cuộc sống của mình. Do đó tự tử, hủy hoại thân thể, ép xác, để
thân hình bệnh tật, yếu đuối, đầu óc thiếu minh mẫn không phải là Chánh Mệnh.
Nhưng yêu mến cuộc sống không có nghĩa là bồi đắp quá đáng cho thân mình như ăn
mặc diêm dúa, quần áo đắt tiền, trưng diện kim cương, ngọc thạch, vàng bạc, ăn
nhậu, chè chén, chơi bời trác táng để thỏa mãn xác thân. Những thứ đó không
phải là Chánh Mệnh. Các bạn có biết rằng nước Mỹ là một nước ăn mặc giản dị
nhất thế giới không? Các bạn có biết rằng hầu như cả nước Mỹ, dù già dù trẻ,
mỗi ngày đều tới phòng tập thể dục khoảng tiếng đồng hồ, hoặc chạy bộ ngoài
công viên, hoặc đạp đạp xe...để giữ gìn sức khỏe không ? Các bạn có biết
rằng kỹ nghệ giúp người ta Diet (kiêng khem) ăn uống bớt đường, bớt mỡ để tránh
bệnh cao huyết áp là kỹ nghệ hái ra tiền không ? Ngay nay, do ảnh hưởng
của Đạo Phật, Hoa Kỳ và Tây Phương đang tiến dần đến chế độ ăn
chay để bảo vệ sức khỏe và cũng là để tránh giết hại thú vật. Như vậy
Chánh Mệnh có gì làm cản trở cuộc sống tươi đẹp của bạn ? Hay chính nó lại
giúp cho cuộc đời của bạn tươi đẹp hơn ?
2.Chánh Nghiệp :
Chánh Nghiệp là chọn lựa một nghề
nghiệp chính đáng để sinh sống. Tại thế giới Tây Phương, ngoại trừ những nghề
như trộm cướp, mãi dâm, buôn người, làm bạc giả...thì không có nghề gì gọi là
xấu. Cảnh sát lo an ninh trật tự cho xã hội, giám thị trại giam thi hành luật
pháp để giam giữ phạm nhân... đều là những nghề cao quý. Những công ty cung cấp
thịt cá, các lò sát sinh cũng không phải là nghiệp xấu vì họ cung cấp thực phẩm
cần thiết cho dân chúng chứ bản thân họ cũng không muốn giết hại thú vật. Nhưng
mới đây Đức Đạt Lai Lạt Ma đã phản đối kỹ nghệ nuôi gà quá tàn ác tại Hoa Kỳ,
vì cách nuôi phản lại thiên nhiên và hành hạ thú vật quá mức. Tuy nhiên ý nghĩa
của Chánh Nghiệp còn đi xa hơn nữa. Chánh Nghiệp còn có nghĩa là chúng ta phải
hành xử nghề nghiệp của chúng ta một cách lương hảo, không lường gạt, gian trá,
luôn luôn phải lấy chữ Tín làm đầu. Tại Hoa Kỳ, bất cứ ai làm một nghề gì cũng
phải tuân thủ quy tắc đạo đức gọi là Code of Ethics, từ phóng viên báo chí đến
tòa án, luật sư, bác sĩ, ngân hàng, người sửa xe, bán hàng siêu thị...nếu vi
phạm vào lương năng chức nghiệp, lập tức bị công luận lên án và đưa ra tòa xét
xử. Như vậy phải chăng Chánh Nghiệp chính là ngọn đuốc soi đường cho chúng ta
chọn một nghề nghiệp chân chánh, rồi hành nghề trong tinh thần trọng pháp, vừa sinh
sống vừa phục vụ nhân quần xã hội, trong tinh thần đạo đức. Xin bạn nhớ cho,
con người không phải chỉ bị hủy diệt bởi chiến tranh, thiên tai, bệnh tật mà
còn bị hủy diệt bởi sự thiếu chân chính mà con người dùng để đối xử với nhau.
3.Chánh Kiến :
Chánh Kiến là nhìn sự vật một cách
ngay thẳng và không thiên lệch. Từ ngàn xưa đến giờ, sự ghét bỏ, sự kỳ thị, sự
ngăn cách và thù hận đều gây ra bởi cái nhìn thiên lệch. Chính các yếu tố như
chủ nghĩa, tôn giáo, mầu da, chủng tộc, đảng phái, quyền lợi và kể cả tình
yêu... đã làm người ta không còn nhìn sự vật một cách khách quan nữa. Khi đã có
cái nhìn thiên lệch thì hành động thiên lệch. Hành động thiên lệch đưa đến bất
công. Từ bất công đưa đến chia rẽ, thù hận. Nếu bạn là thanh niên sinh viên tại
các nước Á Châu và mong mỏi du học hoặc sinh sống ở Hoa Kỳ hoặc các quốc gia Âu
Châu, xin bạn ngay từ bây giờ hãy tự trang bị cho mình quan điểm Chánh Kiến.
Nếu không, bạn sẽ cảm thấy lạc lõng hoặc lạ kỳ trong một xã hội mà những nhận
xét thiếu vô tư, thiên lệch, định kiến... hầu như đang bị loại trừ và không còn
chỗ đứng. Vì muốn tạo bình an cho nhân loại, muốn chân lý được thể hiện mà Đức
Phật luôn luôn giáo hóa hàng đệ tử là phải luôn luôn quán xét sự vật một cách
thận trọng, quán xét một cách công minh và xa hơn nữa quán xét với tâm Từ Bi (Từ
Bi Quán) để không gây khổ lụy cho người và giữ gìn phẩm hạnh đạo đức của chính
mình. Quan điểm đúng đắn - tức Chánh Kiến - về mọi vấn đề của xã hội luôn luôn được trân
trọng và mọi người lắng nghe.
4.Chánh Tư Duy :
Chánh Tư Duy là suy nghĩ một cách
chân chính. Thế nào là suy nghĩ chân chính ? Không suy nghĩ về những điều
ác, không suy nghĩ về những gì tổn hại cho mình và cho người. Không suy nghĩ về
những gì làm tổn hại đến hạnh phúc của người khác. Không suy nghĩ về những gì
gian trá, thiếu lương thiện, thiếu thành thật, thiếu bao dung, thiếu Từ Bi,
thiếu nhân đạo...như thế gọi là Chánh Tư Duy. Để có Chánh Tư Duy chắc chắn là
phải có Chánh Kiến bởi vì nếu đã có Tà Kiến thì chắc chắn sẽ đẻ ra suy nghĩ
thiếu chân chính. Tuy nhiên Phật Giáo không dừng ở chỗ đó. Chánh Tư Duy còn
nhìn vào bản thể sự thật của vũ trụ và nhân sinh. Sự suy nghĩ cho rằng tất cả
những gì đang xảy ra trước mắt đây đều do sự an bài của Đấng Thần Linh (God),
suy nghĩ cho rằng Thần Linh có thể rửa sạch những tội ác kinh khiếp và biến nó
thành phước, suy nghĩ cho rằng không có Quả Báo gì hết, làm ác vẫn được sung
sướng...những suy nghĩ như thế đều không phải là suy nghĩ chân chính. Vậy thì
dưới góc cạnh khoa học, Chánh Tư Duy chính là sự suy nghĩ cẩn trọng, thấu đáo
về mọi sự kiện xảy ra chung quanh mình trong tinh thần khách quan, vô tư không
ngoài mục đích mở mang trí tuệ và đem lại lợi ích cho mình và cho người. Chánh
Tư Duy chính là khởi đầu của phương pháp khoa học.
5.Chánh Ngữ :
Qua ngôn ngữ, qua cách ăn nói chúng
ta có thể nhìn thấy tình cảm, phẩm hạnh và trí tuệ một người. Chánh Ngữ có
nghĩa là :
-Nói lời ngay
thẳng mà không nói lời gian dối.
-Nói lời êm ái mà
không nói lời hung bạo.
-Nói lời chân
thật mà không nói lời lừa mị.
-Nói lời đạo đức
mà không nói lời gian tà.
-Nói lời giải oan
mà không nói lời kết tội.
-Nói lời dịu êm
mà không nói lời xỉ vả.
-Nói lời nâng đỡ
mà không nói lời ghét bỏ.
-Nói lời tin
tưởng mà không nói lời bi ai.
-Nói lời kết đoàn
mà không nói lời chia rẽ.
-Nói lời thứ tha
mà không nói lời trói buộc.
-Nói lời chở che
mà không nói lời hắt hủi.
-Nói lời Từ Bi mà
không nói lời cay nghiệt.
-Nói lời khiêm
tốn mà không nói lời khoa trương.
Các bạn có biết không, tại Hoa Kỳ,
nhiều dân biểu, thượng nghị sĩ, bộ trưởng, phóng viên, nhà báo sự nghiệp lẫy
lừng, cũng chỉ vì một lời nói sơ xuất mà sự nghiệp tiêu tan. Vậy thì hành trang
Chánh Ngữ sẽ giúp các bạn trở nên một người có phẩm hạnh, được mọi người quý
trọng, thương mến và dĩ nhiên giữ an vui cho cuộc sống của chính mình. Đó cũng là
chìa khóa của sự thành công lớn và bền vững. Cứ tưởng tượng trong một tập thể,
một gia đình, một xã hội mà toàn là những lời gian dối, toàn là những lời hung
bạo, những lời chửi rủa thì xã hội, tập thể và gia đình đó như thế nào ?
Chánh Ngữ cũng là hình ảnh của một Cung Trời an vui và thánh thiện đó bạn ạ.
6.Chánh Tinh
Tấn :
Chánh Tinh Tấn là cố gắng, nỗ lực
không ngừng để đạt mục tiêu tốt lành mà mình đã đề ra. Ngày nay thế giới đang ở
vào cuộc chạy đua khốc liệt. Quốc gia này chạy đua với quốc gia khác. Tổ chức
này chạy đua với tổ chức khác. Tôn giáo này cạnh tranh với tôn giáo khác. Công
ty này cạnh tranh với công ty khác. Cá nhân này ganh đua với cá nhân khác trong
nghề nghiệp sinh sống nếu không muốn bị đào thải. Sinh viên ra trường phải cạnh tranh với bạn mình để tìm việc. Tìm được việc làm rồi mỗi năm lại phải trau dồi thêm kiến thức nếu không muốn bị
lạc hậu và có khi mất việc. Thế hệ trẻ chịu rất nhiều áp lực xã hội mà thế hệ
cha anh không có. Chính vì thế mà sự căng thẳng (tress), và thúc ép (pressure)
của cuộc sống gia tăng. Thế nhưng theo lời Phật dạy, các bạn trẻ phải nỗ lực vươn lên, nhưng trong tinh thần trọng pháp và ngay thẳng. Còn trong thể
thao, hoặc các môn chơi, Chánh Tinh Tấn có nghĩa là ganh đua trong “tinh thần
thượng võ”. Còn đối với các bậc tu hành, Chánh Tinh Tấn có nghĩa là trên
con đường tiến tu để đạt Thánh quả, không sợ ngăn ngại hay thối chuyển vì các
chướng duyên, vì hoàn cảnh éo le, vì cám dỗ, vì mệt mỏi, vì dao động và hồ
nghi. Còn các bạn trẻ, với đời sống của một Phật tử bình thường, Chánh Tinh Tấn
còn có nghĩa là luôn luôn học hỏi thêm để mở mang trí tuệ, không thối chí ngã
lòng khi gặp thất bại, không bỏ cuộc nếu mục tiêu theo đuổi là tốt đẹp. Chánh
Tinh Tấn khiến bạn sống vui và tin tưởng.
7.Chánh Niệm:
Chánh Niệm
có nghĩa là nhớ nghĩ tới những gì chân chính và tốt lành. Cuộc sống của chúng
ta đây có quá nhiều phiền trược và khổ đau. Hầu như ai ai cũng từng trải qua những mất mát, tình yêu gẫy
đổ, thất bại, bất ưng, nhọc nhằn trong quá khứ. Những điều đó hằn sâu vào tiềm
thức (A Lại Da) (3) của chúng ta và có thể kéo lê nhiều kiếp. Ký ức giúp chúng
ta nhưng cũng làm khổ chúng ta. Trong cuộc sống, dù chúng ta đang ở vào thì
hiện tại nhưng lại bị tác động bởi gánh nặng của quá khứ. Quá khứ do những
người đi trước để lại và do chính chúng ta tạo tác. Do đó, để sống an bình và
hạnh phúc, chúng ta phải biết chọn lọc tức biết quên và biết nhớ những gì. Trên
tinh thần đó, Chánh Niệm nghĩa là:
-Hãy nhớ nghĩ đến những gì tốt đẹp.
-Hãy nhớ nghĩ tới những gì lợi lạc cho đời.
-Hãy nhớ nghĩ tới những gì là tương lai tươi sáng.
-Hãy nhớ nghĩ đến những người đã gia ân cho mình
-Hãy nhớ nghĩ đến những người đã từng giúp đỡ mình.
-Hãy nhớ nghĩ tới những lỗi lầm trong quá khứ để không tái
phạm.
-Nhưng hãy quên đi thù hận
-Hãy quên đi những oán hờn, vay trả trong quá khứ.
Chánh Niệm
theo cái nhìn của các tâm lý gia, trên một góc độ nào đó gọi là “giải tỏa những ẩn ức” nhưng trong Phật
Giáo còn có ý nghĩ hướng thượng và tạo bình an trong tâm tưởng để hướng về
tương lai.
8.Chánh Định:
Theo Phật
Học Phổ Thông do Hòa Thượng Thích Thiện Hoa biên soạn thì Chánh Định là tập
trung tư tưởng vào một vấn đề chính đáng, đúng với chân lý, có lợi ích cho mình
và cho người. Chánh Định gồm những phép Quán như: Quán Thân Bất Tịnh, Quán Từ Bi, Quán
Nhân Duyên, Quán Giới Phân Biệt (sự giả hợp của sáu căn) và Quán Sổ Tức (hơi thở). Theo tôi, Chánh Định như vậy
khó quá chỉ dành cho các bậc xuất gia hoặc cư sĩ tại gia. Còn đối với các bạn
trẻ, Chánh Định là hành Thiền để cho đầu óc thanh thản. Hiện nay trên toàn nước
Mỹ và Canada có khoảng trên 1000 Thiền đường (Medition Center) là nơi giải
thóat tâm linh, là nơi thật sự “cứu rỗi”
(theo danh từ của Ky Tô Giáo) và “cứu khổ” (theo danh từ của Phật Giáo) cho
hằng triệu người Mỹ Da Trắng đã từng khẩn thiết cầu nguyện Thần Linh (God)
nhưng không đem lại kết quả. Một số tài tử điện ảnh, danh ca nổi tiếng Hoa Kỳ,
khi đi đâu xa họ, đều mang theo một tượng Phật nhỏ, để rồi sau những buổi trình
diễn căng thẳng và mệt nhọc, trở về phòng nghỉ, họ đặt tượng Phật lên và bắt
đầu ngồi Thiền. Nhờ hành Thiền mà họ được an tĩnh tâm hồn, tìm lại sự thanh
thản từ đó lạc quan, yêu đời, tránh được căn bệnh buồn chán, nhàm chán…dễ đi
đến mất ngủ rồi uống thuốc an thần, hút xì-ke ma túy, nghiện rượu như một thói
quen của các nghệ sĩ trình diễn, tài tử ci-nê. Dĩ nhiên hành Thiền không phải dễ.
Muốn làm được điều này, các bạn nên học qua một khóa tu Thiền nơi các vị thiền
sư.
Xuyên
qua Bát Chánh Đạo, các bạn đã thấy phần nào cốt lõi của Đạo Phật, đã thấy ngôi
nhà Phật Giáo lung linh đầy mầu sắc giống như Lưới Đế Châu của Trời Đế Thích, và
các bạn có thể dùng Bát Chánh Đạo làm hành trang để vào đời: Một
cuộc đời an vui, đầy ý nghĩa và có thể nói là cao thượng vì Đức Phật
suốt đời chỉ giảng dạy việc giúp đỡ người khác và không làm tổn hại đến người
khác. Để làm kết luận cho bài này, tôi xin trích dẫn ở đây một số lời giảng của
một vài vị cao tăng dành cho các bạn trẻ trên thế giới, như một hành trang phụ
thêm cho các bạn.
Trong cuốn sách Phật
Pháp Cho Sinh Viên (4) viết bằng Thái Ngữ, Rod Bucknell dịch ra Anh Ngữ
và Thiện Nhựt chuyển qua Việt Ngữ, Đại Sư Buddhadasa Bhkkhu nơi trang 23 đã
giảng dạy như sau “ Đức Phật dạy rằng
các pháp hữu vi, tức là mọi sự vật và mọi
chúng sanh trên thế gian đều vô thường vì chúng luôn luôn trôi chảy, biến đổi, hoại
diệt. Chúng ta phải luôn luôn tỉnh thức. Hãy thận trọng ghi nhớ lời dạy này.
Mọi sự vật trên thế gian đều luôn luôn trôi chảy, biến đổi, hoại diệt tức là vô thường. Đừng đùa với chúng. Chúng sẽ
cấu xé bạn, sẽ tát vào mặt bạn, sẽ cột trói và giữ chặt bạn. Rồi bạn sẽ ngồi
bệt xuống đất mà khóc than, và biết đâu lại muốn tự tử nữa!” (trang 23)
Còn Đại Sư Thanh Vân (Hsing Yun)
Đài Loan, trong cuốn sách nhỏ nhan đề Looking Ahead: A Guide for Young Buddhists
đã viết như sau, tôi xin dịch ra Việt Ngữ “Phật
Giáo giống như một ngọn núi cao. Khi trèo lên chúng ta sẽ thấy tất cả mọi hiện
tượng. Phật Giáo lại giống như một đại dương. Nếu chúng ta thấu hiểu, trí tuệ
của chúng ta sẽ rộng lớn và không ngằn mé. Mỗi người trong chúng ta đều có thể
làm cho mình trở nên thanh sạch và dũng mãnh qua những lời chỉ dẫn và giáo
pháp, nói một cách tổng quát, giúp và giải phóng muôn loài bằng cách đem lại
lợi lạc và hạnh phúc cho tha nhân, và chính chúng ta tự thăng hoa qua thiền
định và trí tuệ.” (Trang 40) (5)
Còn Giáo SưRhys Davids (6) sau
khi nghiên cứu Phật Giáo, đã kết luận mạnh mẽ như sau trong cuốn Phật
Giáo Là Gì của Đại Sư Narada Maha
Thera do Phạm Kim Khánh dịch ra Việt Ngữ, “Dầu là Phật tử hay không phải Phật tử, tôi nghiên cứu từng hệ thống tôn
giáo lớn trên thế giới, và trong tất cả, tôi không tìm thấy trong tôn giáo nào
có cái gì cao đẹp và tòan vẹn hơn Bát Chánh Đạo của Đức Phật. Tôi chỉ còn có
một việc làm là thu xếp nếp sống cho phù hợp với con đường ấy “ (trang 23)
Đào Văn Bình
(California Tháng 12,
2554.PL - 2010.TL)
Cước chú :
(1) Hòa
Thượng Thích Đức Nhuận - Nguyên Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống Giáo Hội PG/VNTN,
sinh năm 1924, viên tịch năm 2002.
(2) Đại Sư Narada Maha Thera sinh năm 1898 tại
Tích Lan, viên tịch năm 1983, tốt nghiệp St. Benedict’s College & Ceylon
University College. Thập niên 1960 Ngài thường thăm viếng Miền Nam Việt Nam để
thuyết pháp và biếu tặng một cây Bồ Đề
trồng ở Thích Ca Phật Đài, Vũng Tàu.
(3) Tiềm Thức hay Tạng Thức, thức thứ
tám hay Nghiệp Thức
(4) Đại Sư Buddhadasa Bhkkhu (Phật Lệ) xuất gia
năm 1923 sau đó thành lập Thiền Viện Giải Thoát tại Thành Phố Pum Riang, Thái
Lan. Ngài chú tâm hành Thiền Minh Sát và trở nên một biến cố quan trọng của
lịch sử Phật Giáo Thái Lan. Ngài thị tịch năm 1993.
(5) Đại Sư Hsing Yun sinh năm 1927 tại Giang Tô
(Trung Hoa) thọ giới tỳ kheo năm 1941 sau những năm tu hành gian khổ. Năm 1949
ngài qua Đài Loan và làm sống lại Phật Giáo Đại Thừa Trung Hoa. Ngài vân du
khắp thế giới để thuyết giảng và tích cực tham gia vào các cuộc đối thoại về
tôn giáo. Mười sáu trường cao đẳng Phật học trong đó có University of the West
in Rosemead, California nằm dưới sự giám sát của Phổ Quang Sơn (Fo Guang Shan là
một tu viện và cơ sở Phật Giáo do ngài sáng lập.
(6) Giáo Sư Thomas William Rhys Davids sinh năm
1843 mất năm 1922 là một học giả người Anh về tiếng Pali và là sáng lập viên
của Pali Text Society. Ông là con cả của một mục sư cai quản giáo đoàn Welch
(Anh Quốc) được mọi người thương mến coi đó như Giám Mục của Essex (Bishop of
Essex).
«