Hòa Thượng P.A. Payutto được coi như là một trong những tu sĩ
Phật giáo uyên bác nhất ở Thái Lan. Ngài thuyết giảng về nhiều đề tài,
từ xã hội, chính trị, kinh tế đến khoa học... Tuy nhiên, tất cả đều
được đặt nền trên giáo lý đạo Phật. Tác phẩm "Buddhadhamma" (Phật pháp)
dầy hơn 1.000 trang của ngài là một tác phẩm nổi tiếng. Hiện nay, Ngài
được biết đến dưới tên Dhammapitaka, một danh hiệu được đức Vua Thái
Lan ban cho.
Bài viết dưới đây là bài phát biểu của Ngài trong Hội Nghị Tôn
Giáo Thế Giới lần thứ hai được tổ chức tại thành phố Chicago, USA năm
1993, đúng 100 năm sau Hội Nghị lần thứ nhứt, cũng được tổ chức tại
thành phố nầy năm 1893.
-ooOoo-
Ðây là lần đầu tiên trong thế kỷ 20, chúng ta đã tổ chức một hội
nghị tôn giáo quốc tế có tầm mức quan trọng như thế này. Trong khoảng
thời gian một trăm năm từ hội nghị lần trước, thế giới đã trải qua
nhiều thay đổi lớn lao. Chúng ta hiện đang ở vào thời đại được gọi là
"xã hội thông tin hậu kỹ nghệ" hay "hậu chiến tranh lạnh". Với sự cáo
chung của cuộc chiến tranh lạnh, sự căng thẳng và nỗi sợ hãi - kết quả
do sự đe dọa của một cuộc đụng độ giữa hai siêu cường và một thế giới
chia cắt thành những phe phái ý thức hệ - đã hình như biến mất. Nhiều
người cảm thấy rằng, thế kỷ 21 sắp tới, nhân loại sẽ được may mắn sống
trong hòa bình hơn. Thế nhưng, sự việc đã nhanh chóng cho thấy rõ rằng
không phải như thế. Trong khi hình như chúng ta đã tránh được một sự
tiêu hủy toàn diện với cuộc chiến tranh nguyên tử, thì nhiều cuộc chiến
tranh với tầm cỡ nhỏ hơn đã nổ ra nhiều nơi trên thế giới. Những cuộc
chiến tranh này còn khó kiểm soát hơn cả cuộc chiến tranh lạnh, vì, mặc
dù có sự đe dọa hiển nhiên, cuộc chiến tranh lạnh vẫn khó có thể phát
triển tới mức độ tấn công toàn diện. Do vậy, sự đe dọa của cuộc chiến
tranh nguyên tử vẫn còn. Thực tế là, với vũ khí nguyên tử rải rác ra
nhiều quốc gia, sự đe dọa còn lớn lao hơn.
Mặc dù những cuộc chiến tranh ý thức hệ hình như đã qua đi, giờ đây,
nhiều cuộc chiến tranh đã bùng nổ dữ dội và tàn bạo hơn vì những xung
đột tôn giáo và chủng tộc. Những cuộc đấu tranh dân quyền và xung đột
chủng tộc đã trở thành phổ biến trên khắp thế giới. Thêm vào đó, sự
khủng bố đã càng lúc càng phổ biến và hung bạo hơn. Sự kiện là, thế
giới đã trở thành nhỏ hơn qua sự phát triển của kỹ thuật thông tin
không những chỉ trong lãnh vực du lịch và truyền thông mà còn cả việc
bành trướng chủ nghĩa khủng bố nữa. Bọn khủng bố đã lợi dụng phương
tiện kỹ thuật truyền thông để tạo sự bất an cho con người trong khi di
chuyển, du lịch, đồng thời cũng gia tăng sự nguy hiểm trong mọi quốc
gia.
Lòng thù hận và sự bất tín lẫn nhau đã gia tăng mạnh mẽ bởi sự tranh
chấp tài nguyên thiên nhiên. Cuộc chạy đua của lòng tham nhằm chiếm giữ
tài nguyên thiên nhiên đã làm cho vấn đề trở nên khó khăn gấp bội vì
không những chỉ gây ra xung đột trong xã hội loài người mà còn ngay cả
trong môi trường thiên nhiên. Một mặt, có nhiều vấn đề về môi sinh, và
mặt khác, có sự gia tăng phá hoại giữa con người với nhau.
Sự khủng hoảng môi sinh và sự thiếu hụt tài nguyên thiên nhiên bắt
đầu trở nên rõ ràng chỉ vào cuối thế kỷ này, và chúng sẽ tạo một ảnh
hưởng lớn lao cho nhân loại vào thế kỷ 21. Con người thế kỷ 21 sẽ nhận
lấy hậu quả của sự phá hoại do con người thế kỷ 20 gây ra. Số lượng tài
nguyên thiên nhiên khổng lồ của quả địa cầu đã tích lũy qua hàng trăm
triệu năm hầu như đã bị con người tiêu phí đi chỉ trong vòng một, hai
trăm năm.
Tất cả những vấn đề nầy đều bắt nguồn từ thái độ gây hấn, thiếu thân
thiện, mà chúng đã được nuôi dưỡng bởi quyền lực mù quáng mà đạo Phật
gọi là sân (dosa) và tham (lobha). Tham và sân là hai lực mạnh mẽ của
tâm thức. Nhờ sự phát triển của kỹ thuật, đặc biệt là nền kỹ thuật cao
(high technology) chuyên về thông tin và truyền thông, tham lam và sân
hận đã lợi dụng nhiều phương tiện, dụng cụ hơn. kỹ thuật đã trở thành
một tên tay sai của lòng tham và sân hận, và sự tiến bộ kỹ thuật, trong
dạng thức phát triển kỹ nghệ đã hầu như chỉ phục vụ cho mục đích của
chúng. Khoa học, kỹ thuật, và sự phát triển của kỹ thuật thông tin và
truyền thông đã được dùng đến nhằm mê dẫn con người đến việc tiêu xài
hoang phí cẩu thả, sự ngu dốt và say sưa, hơn là hướng về sự phát triển
cá nhân hay là nâng cao phẩm chất của đời sống. Người ta đã sử dụng
khoa học, kỹ thuật để tìm kiếm những điều mà họ thèm khát, và như thế
đã tạo ra những sự bất hòa, tranh chấp. Lòng thù hận đã tràn đầy trong
những cuộc xung đột tôn giáo và chủng tộc. Ðiều này lại càng được đẩy
mạnh hơn bởi ảnh hưởng của lòng tham và sự giành giật tài nguyên thiên
nhiên.
Tham và sân đã từng là nguyên nhân của nhiều vấn đề của nhân loại,
cả trong lãnh vực cá nhân cũng như xã hội, và ngay đến vấn đề môi sinh
nữa. Vậy thì, để thực sự giải quyết những vấn đề nầy, chúng ta phải
kiểm soát được tham và sân.
Những điều kiện tự nhiên của tham và sân có thể dễ kiểm soát hơn, và
dễ dập tắt hơn, nếu chúng không bị ảnh hưởng bởi điều kiện thứ ba, mà
đạo Phật gọi là Kiến (ditthi), như quan điểm và tín ngưỡng. Ý thức hệ,
tín ngưỡng tôn giáo và những giá trị xã hội là những khía cạnh của
kiến. Khi nào lòng tham, sự giận dữ và lòng thù hận được tăng cường
bằng đức tin và những giá trị xã hội, chúng sẽ có một hướng tiến rõ
ràng, một thúc đẩy dẫn chúng tới những hành vi phá hoại hơn. Tham và
sân, nếu được nuôi dưỡng và tiếp trợ bởi ảnh hưởng của tà kiến và đức
tin mù quáng sẽ làm cho chúng khó giải quyết hơn.
Chấp vào những ý thức hệ và những giá trị xã hội khác nhau, cho dù
có ý thức hay không, sẽ trở thành cộng nghiệp (nghiệp ở tầm mức xã
hội), một hệ quả có ảnh hưởng rộng rãi. Nghiệp (kamma) thường có nghĩa
là hành động, nhưng trong giáo lý đạo Phật, nó có ý nghĩa đặc biệt, chỉ
những hành động có ý hướng, hay tác ý. Khi hành động được dựa trên một
ý hướng xấu - như tham, sân, sợ hãi, và lừa dối - chúng sẽ được gọi là
nghiệp bất thiện, sẽ dẫn tới những kết quả khó chịu, bất như ý. Khi
hành động được dựa trên những ý hướng tốt - như bố thí, giúp đỡ, kiên
nhẫn và trí tuệ - chúng sẽ được gọi là nghiệp thiện, sẽ dẫn tới những
kết quả dễ chịu, như ý. Nghiệp không những vận hành ở bình diện cá
nhân, mà còn ở bình diện tập thể nữa. Cả một đám đông có thể bị giục
đẩy vào tình trạng giận dữ, kích động hay sợ hãi, và hành động của họ
sẽ tùy thuộc vào trạng thái tinh thần đã ảnh hưởng họ. Những hành động
tạo ra những kết quả tập thể sẽ ảnh hưởng đến cả cộng đồng. Thí dụ như,
khi một quốc gia chọn theo một giá trị xã hội xấu, như chủ nghĩa duy
vật chẳng hạn, thì cả quốc gia phải nhận chịu hậu quả của giá trị xã
hội đó, cho dù có chấp nhận nó một cách ý thức hay không. Những kết quả
này ảnh hưởng tới từng cá nhân đến mức độ nào sẽ tùy thuộc vào mức độ
mà mỗi cá nhân đã cam kết, liên hệ với giá trị xã hội đó, và cũng tùy
thuộc vào phản ứng của mỗi người. Thế nên, cả xã hội có thể bị thúc đẩy
theo một chiều hướng nào đó qua những tín ngưỡng và giá trị xã hội tập
thể. Ðó là lý do tại sao đạo Phật đã coi tín ngưỡng có một ảnh hưởng
mạnh mẽ nhất đến hành động nghiệp báo. Tham và sân sẽ trầm trọng hơn và
khó kiểm soát hơn nếu chúng dựa trên tà kiến, mê tín, và những giá trị
xã hội xấu. Ngược lại, tham và sân sẽ ở mức độ nhẹ hơn, dễ kiểm soát
hơn, và có thể dập tắt hẳn nếu chúng dựa trên chánh kiến, chánh tín, và
những giá trị xã hội tốt.
Ngày nay, lòng tham và sân hận đang phát triển một cách xuôi chèo
mát mái. Chúng được ủng hộ và dựa trên một nền tảng mạnh mẽ của tà
kiến. Trong những thập niên trước, chúng ta đã chứng kiến nhiều vấn đề
về ý thức hệ và thế giới đã chia thành hai phe. Giờ đây, sự tranh chấp
giữa những ý thức hệ này đã suy cạn, thế nhưng, chúng ta vẫn chưa giải
quyết được những vấn đề về chủ nghĩa quốc gia, chủ nghĩa dân tộc, và
chủ nghĩa biệt phái. Ý thức hệ là một loại kiến chấp, và vì thế chúng
ta hãy quay lại bình diện kiến chấp và đức tin để tìm một giải pháp.
Một cách tổng quát, đức tin đang khống chế nền văn minh nhân loại đã dựa trên ba nhận thức chính:
- Nhận thức rằng nhân loại được tách biệt khỏi thiên nhiên, và phải
kiểm soát, khống chế hoặc sử dụng thiên nhiên theo ước vọng của họ.
- Nhận thức rằng đồng loại không phải là "những con người như nhau".
Nhận thức nầy nhấn mạnh vào sự khác biệt giữa con người với nhau thay
vì tìm những điểm tương đồng.
- Nhận thức rằng hạnh phúc chỉ có thể có được bằng sự dư thừa sở hữu vật chất.
Nhận thức đầu tiên là một thái độ hướng về thiên nhiên; nhận thức
thứ hai là một thái độ hướng đến đồng loại; và nhận thức thứ ba là một
nhận thức về mục đích của đời sống.
Ba niềm tin hay nhận thức trên đã qui định hướng phát triển của nhân
loại. Rất dễ dàng nhìn rõ vai trò của chúng trong thời hiện đại, trong
đó nhân loại hầu như hoàn toàn bị chúng khống chế. Bị giữ chặt dưới
quyền lực của chúng, hành động của chúng ta trở thành cộng nghiệp ở tầm
mức xã hội. Thế nên sự phát triển của xã hội loài người đã được hướng
dẫn bởi nghiệp - hoặc hành động - của những con người mê muội vì ba
nhận thức sai lệch trên.
Khi lòng tham và sân hận được đặt nền trên hoặc ủng hộ bởi kiến chấp
- cho dù là tôn giáo, chính trị hay điều gì khác - chúng sẽ được đẩy
mạnh và củng cố, với những hệ quả tản rộng rất khó điều chỉnh. Bao lâu
mà kiến chấp chưa được định vị đúng đắn thì lòng tham và sân hận khó có
thể dập tắt.
Các khoa học và các môn học khác - đã dẫn đến sự tiến bộ vật chất
trong thời hiện đại và cũng đã đặt nền cho nền văn minh hiện đại - đã
phát triển một cách vô ý thức dưới ảnh hưởng của ba nhận thức nầy. Thí
dụ như, khoa học thiên nhiên đã phát triển dưới ảnh hưởng của ước vọng
muốn chinh phục thiên nhiên, là đã dựa trên nhận thức thứ nhứt - nhận
thức rằng nhân loại tách rời khỏi thiên nhiên; khoa học xã hội đã nhìn
con người trong khía cạnh phe phái và đấu tranh quyền lực thay vì nhìn
họ như là những người bà con hay là những người bạn đồng cư trên quả
địa cầu thân yêu; khoa học nhân văn được phát triển dưới ảnh hưởng của
ý niệm tự do và hạnh phúc là những điều kiện ngoại tại - kết quả của sự
kiểm soát thiên nhiên hoặc những đồng loại khác.
Trong những năm sắp tới, nhân số trên thế giới sẽ tiếp tục gia tăng,
tài nguyên thế giới sẽ tiếp tục suy giảm, và môi sinh sẽ tiếp tục băng
hoại. Ba nhận thức sai lệch trên sẽ đẩy cao các vấn đề nầy tới mức độ
nguy kịch hơn. Trong khi nhân số gia tăng và tài nguyên suy giảm, chúng
ta tiếp tục cảm nhận rằng sự hạnh phúc tùy thuộc vào những thú vui cảm
tính và sự sở hữu vật chất, rằng tự do như là quyền lực kiểm soát các
điều kiện bên ngoài, và rằng đồng loại như là những kẻ kình địch và xa
lạ. Chúng ta đang chịu áp lực càng lúc càng tăng nhằm cạnh tranh với
nhau để chiếm hữu tài nguyên thiên nhiên. Dưới sự hướng dẫn lệch lạc
của ba kiến chấp sai lầm nầy, chúng ta cũng đã hình thành nếp sống dẫn
tới sự nảy sinh những căn bệnh xã hội như nghiện ngập, bạo động, thần
kinh căng thẳng, bệnh tâm thần, tự tử, và AIDS - và nhiều di sản của
thế kỷ 20 mà công dân thế kỷ 21 phải đối phó.
Ðể giải quyết những vấn đề của lòng tham, sân hận, ích kỶ và tương
hoại, chúng ta phải đối phó với vấn đề kiến chấp (thành kiến) và thái
độ. Khi chúng ta nói về kiến chấp là chúng ta đã bước vào lãnh vực của
tôn giáo. Tôn giáo đối phó với vấn đề kiến chấp và tự nó là một loại
kiến chấp. Ðể tôn giáo có thể giải trừ những vấn nạn của thế giới một
cách hiệu quả, nó phải được dựa trên chánh kiến (right view =
sammaditthi), và chánh kiến đó phải được truyền bá trên thế giới, hơn
là chỉ khuyến khích và dạy dỗ theo ba nhận thức sai lệch trên.
Các nước phát triển đã đồng ý rằng nhận thức thứ nhất - nhân loại
tách biệt khỏi thiên nhiên, và tham vọng chinh phục thiên nhiên - là
một sai lầm. Các nhà môi sinh học nhấn mạnh rằng chúng ta phải bắt đầu
nhìn con người như một phần của thiên nhiên và con người phải học cách
sống hòa bình với thiên nhiên. Ðó là một dấu hiệu rất tốt. Nó cho thấy
rằng chúng ta đang bắt đầu để ý tới nhận thức đầu tiên trong ba nhận
thức độc hại trên. Mặc dù đó là một khởi đầu tốt, nhưng nó chưa đầy đủ.
Ba nhận thức trên đều tương liên với nhau, và chúng phải được chú ý tới
đầy đủ để thực sự có thể giải quyết vấn đề.
Một yếu tố khác liên quan đến những vấn đề hiện đại là cách mà chúng
ta nhìn nhau. Ðây là thái độ thứ hai mà chúng ta phải sửa đổi. Các tôn
giáo chúng ta gặp nhau hôm nay là nhằm tìm kiếm một đường hướng để giúp
con người sống hoà bình với nhau và làm thuyên giảm những nỗi khổ trên
thế giới. Ðây là một mục tiêu cao cả, một nỗ lực đúng lúc - có lẽ hơi
trễ một chút - nhưng trong chính các hàng giáo phẩm, chúng ta phải thừa
nhận rằng, tôn giáo đã giữ một vai trò quan trọng trong việc làm nảy
sinh ra những vấn đề mà tôi đã nói. Cho đến nay, trên khắp thế giới,
tôn giáo là một trong những nguyên nhân chính tạo ra sự chia rẽ và bất
hòa, ngay cả đến chiến tranh và bạo hành nữa. Ðể thực sự có thể giải
trừ những vấn nạn nầy, chúng ta phải đủ dũng cảm nói ra và thành thật
nhìn vào chính chúng ta trước khi có thể dạy dỗ hay kêu gọi, thuyết
phục người khác. Chúng ta phải can đảm nhìn lại và truy tìm trong chính
tôn giáo của mình để tìm ra những nguyên nhân, những lý do, mà trong
quá khứ, con người đã giết nhau và gây ra những cuộc chiến tranh vì tôn
giáo. Nếu chúng ta có thể tìm thấy điều đó, thì chúng ta có thể giải
quyết được vấn đề.
Tôn giáo của chúng ta đã dạy chúng ta nhìn những người theo các tôn
giáo khác như thế nào? Họ có dạy chúng ta nhìn người khác đạo với lòng
tương kính, tình huynh đệ và hòa thuận, hay họ dạy chúng ta nhìn những
người khác đạo như những kẻ thấp kém hơn, những kẻ tội lỗi, thiếu văn
minh, lầm đường lạc lối, là những kẻ cần phải tiêu diệt đi? Nhiều tôn
giáo đã có khuynh hướng giúp đỡ chỉ một nhóm người chọn lọc, khuyến
khích sự hòa ái và thân thiện chỉ trong nhóm của họ, còn tiếp xúc với
người khác thì lạnh nhạt, thiếu thân thiện. Ðây chính là lý do mà tôn
giáo đã là một sức mạnh chia rẽ trong lịch sử nhân loại, một chất xúc
tác dẫn tới chiến tranh và tàn phá.
Nhiều giáo huấn thích hợp cho một nhóm nhỏ thì giờ đây không còn
thích hợp cho "ngôi làng toàn cầu" (Global Village) nữa. Chúng không
còn thích ứng trong hoàn cảnh hiện tại. Sự phát triển vật chất đã nối
liền hành tinh này bằng những phương tiện truyền thông nhanh chóng,
nhưng nhiều giáo huấn vẫn còn tính cách "bộ phái" (sectarian) và không
chuẩn bị cho chúng ta sẵn sàng sống chung với nhau ở trình độ toàn cầu.
Hình như là sự phát triển nhân cách con người không tương xứng với tình
trạng thế giới vật lý. Tôn giáo chưa hòa điệu với việc giải quyết những
nhu yếu của con người ở trình độ toàn cầu. Chúng ta thấy rằng, tôn
giáo, thay vì là những yếu tố đưa tới sự tương thuận và hòa ái trên thế
giới, lại là nguyên nhân cho nhiều tranh chấp và xung đột, chiến tranh
và tàn sát đẫm máu.
Chúng ta phải thẩm định lại vai trò của các tôn giáo, và xét lại
thái độ và kiến chấp của chúng ta. Nếu tôn giáo giữ một vai trò xây
dựng trong việc phát triển nhân cách, thì nền tảng của những kiến quan
nầy phải được đặt nền một cách đúng đắn và vững chắc. Con người phải
được khuyến khích nhìn nhau một cách bình đẳng, tương kính và chấp nhận
nhau, nhìn nhau với thái độ hài hòa, tương thuận.
Trong khi chưa thể nhìn nhau một cách tích cực như thế, thì ít ra,
chúng ta có thể giải trừ tình huống tiêu cực bằng cách dạy rằng: giết
người là một tội ác, là một hành động xấu. Giết người, cho dù người đó
làm nghề gì, thuộc tôn giáo nào, chủng tộc nào, phe phái nào, thì luôn
luôn là một tội ác. Chúng ta hãy bắt đầu bằng nền tảng căn bản nầy.
Ðời sống chúng ta đầy những tranh chấp và xung đột. Nếu chúng ta
nhìn sâu vào tình trạng xã hội, chúng ta sẽ thấy rõ rằng, lý do mà
những giá trị như nhân quyền và sự khoan dung tôn giáo đã trở thành rất
quan trọng trong thời đại nầy là vì chúng ta đang sống trong một thời
đại của sự tranh chấp, và nếp suy tư của chúng ta thì quá chia rẽ và bè
phái, cục bộ. Trong khi sự quan trọng của những quan niệm như nhân
quyền và sự khoan dung tôn giáo phải được đề cao, chúng ta cũng phải
nhận rằng, sự quan trọng nầy dựa trên một thế giới vẫn còn chịu ảnh
hưởng của nề nếp suy tư chia rẽ. Phần lớn tư tưởng của nhân loại vẫn
bắt nguồn từ nhị nguyên luận. Nhân quyền là sự bảo đảm của chúng ta để
không tàn phá lẫn nhau, trong khi chúng ta vẫn còn chịu ảnh hưởng của
nề nếp suy tư chia rẽ như thế.
Quan niệm về nhân quyền khởi phát từ một bối cảnh lịch sử của sự
chia rẽ, kỳ thị và tranh chấp. Chúng rất cần thiết để bảo vệ tránh sự
tấn công của kẻ khác, là một trả lời trong một tình huống tiêu cực: Khi
nền văn minh bị đe dọa bởi sự khiêu khích, tấn công và tranh chấp, thì
rất cần thiết phải có một vài phương thức bảo vệ nào đó. Nguyên nhân
của nhân quyền đã dẫn đến việc thiết lập luật pháp và những qui định
trong cố gắng giữ vững sự hài hòa trong xã hội chúng ta. Trong các nước
phát triển, những phẩm tính nầy có hiệu quả và cũng rất hữu ích cho cả
thế giới. Trong khi nhân quyền rất hữu ích trong khuôn khổ nhằm giải
hòa những mối bất đồng, chúng không phải là điều lý tưởng. Chúng chỉ là
sự đồng thuận. Ðồng thuận không có khả năng hướng dẫn nhân loại tới sự
hòa hợp và thống nhất chân chính. Ðồng thuận chỉ là tình trạng mà mỗi
bên đồng ý tự giới hạn mình và cho phép người khác làm một số việc gì
đó để cùng đạt tới ích lợi chung. Nó đòi hỏi phải có một phẩm chất cao
của năng lực hành động và sự kham nhẫn đầy trí tuệ.
Tự yếu tính, quan niệm về nhân quyền có ba thiếu sót lớn:
* Trước hết, quan niệm đó tự nó là kết quả của sự chia rẽ, xung đột
và tranh chấp. Ý tưởng về nhân quyền được hình thành nhằm bảo đảm sự tự
bảo tồn và bảo vệ quyền lợi chung. Nhân quyền chỉ đạt được bởi đòi hỏi.
* Thứ hai, nhân quyền là một qui ước (convention), là một sản phẩm
hoàn toàn nhân tạo chứ không hiện hữu trong điều kiện tự nhiên. Chúng
không phải là những "quyền tự nhiên" (natural rights). Là một sản phẩm
nhân tạo, chúng không được đặt nền vững chắc trên sự thực. Ðể có hiệu
lực, chúng phải đuợc bảo vệ bởi luật pháp và phải được chấp thuận từ
mọi phía. Ðể cho nhân quyền được tồn tại lâu dài và vững chắc, chúng
phải được liên hệ tới thực tế tự nhiên, và để được như thế, tâm thức
con người phải được phát triển đến mức độ con người sẵn sàng ca ngợi
nhân quyền. Chỉ có cách nầy nhân quyền mới được dựa trên một chân lý tự
nhiên và được chấp nhận.
* Ðiều nầy dẫn chúng ta đến sự thiếu sót thứ ba của quan niệm nhân
quyền, đó là, chúng chỉ là qui ước cho hành vi xã hội. Chúng không đào
sâu đến vấn đề động cơ tinh thần (mental motivation). Hành vi xã hội
luôn liên hệ đến động cơ tinh thần. Ðộng cơ tinh thần hình thành và
hướng dẫn hành vi xã hội. Nếu nền tảng tinh thần sai lầm, ngay đến
những hành động có vẻ có ý hướng tốt cũng dẫn đến sự tranh chấp.
Trong khi chúng ta phải tiếp nhận những yêu cầu của các nhà hoạt
động cho nhân quyền, chúng ta cũng phải phân tích phẩm chất tinh thần
của họ trước khi chúng ta có thể hiểu rõ tình huống. Khi chúng ta nhìn
sâu vào những động cơ tinh thần đàng sau các yêu cầu của nhân quyền,
chúng ta thấy rằng chúng thường được dựa trên hoặc ảnh hưởng bởi lòng
sân hận, phẫn uất hay sợ hãi. Khi mà có những cảm tính như thế, thì sẽ
rất khó khăn để đạt đến một kết quả thật sự tốt đẹp từ những hoạt động
cho nhân quyền, bởi vì cảm tính căn bản đàng sau chúng không có hài hòa
thật sự. Khi mà những hoạt động nhân quyền được thúc đẩy bởi những động
cơ xấu, thì hành vi hệ quả sẽ rất khó khăn để đạt được kết quả đòi hỏi.
Lạm dụng nhân quyền phải được nhận rõ trong tận đáy sâu tâm thức của
từng cá nhân, và đây là điều quan ngại cho sự phát triển nhân cách.
Chúng ta cũng cần phải tiến tới một phương thức suy tư hoặc một nhận
thức về sự tương quan nhân loại tích cực hơn. Nghĩa là, chúng ta phải
nhìn nhân loại như bà con láng giềng. Chúng ta đều bình đẳng trước cặp
mắt của qui luật tự nhiên, chúng ta là những chủ thể bình đẳng trước
những qui luật tự nhiên.
Tuy nhiên, điều nầy tự nó chưa phải là một suy tư tích cực. Chúng ta
phải nhìn con người vừa bình đẳng vừa hợp nhất. Thời nay, người ta đã
nói quá nhiều về bình đẳng, nhưng thường hướng tới loại bình đẳng đầy
sự chia rẽ và tranh chấp. Một nhận thức về bình đẳng như thế dẫn tới
thái độ tranh chấp về các quyền bình đẳng. Ðó là sự bình đẳng dựa trên
lòng tham, hoài nghi và sợ hãi. Sự hợp nhất rất cần để ngăn chận động
cơ thúc đẩy sự bình đẳng khỏi bị chia rẽ. Hợp nhất là một ước vọng và
sở thích được sống với nhau, một thái độ dẫn tới sự kết hợp và liên
minh. Nó không đơn giản là sự đồng thuận trước sự cạnh tranh, mà nó là
sự phát triển của sự hợp tác vào tính hài hòa.
Cạnh tranh phải được quân bình bởi sự hợp tác và được nâng đỡ bởi
điều mà đạo Phật gọi là tâm từ (metta), một tình thương yêu phổ quát,
không giới hạn, không điều kiện. Rất ít người thực sự hiểu về thiện ý
hay tình yêu. Họ có thể yêu, nhưng đó là tình yêu hạn hẹp, kỳ thị, chia
rẽ và điều kiện hóa - họ thương những người cùng nhóm, nhưng không
thương những người khác nhóm. Tình yêu thương và thiện ý phải được chan
rải khắp nơi, vượt mọi biên giới, hướng đến mọi đời sống hiện hữu trong
vũ trụ.
Ðiều nầy không có nghĩa là chúng ta không bảo tồn được những truyền
thống văn hóa độc đáo của chúng ta. Rõ ràng là chúng ta được sinh ra từ
nhiều nơi khác nhau, và sống trong những bối cảnh văn hóa khác nhau,
thế nên bảo vệ truyền thống và những nền văn hóa dân tộc cần được tiếp
tục. Thuận theo và thích ứng với hoàn cảnh tự nhiên dẫn tới sự hòa hợp
và hạnh phúc trong hoàn cảnh đặc biệt đó. Những nền văn hóa dân tộc có
thể và nên được bảo vệ, và sẽ trở thành giai đoạn hợp nhất trung gian
để hướng tới sự hợp nhất toàn cầu tuyệt hảo. Thế nên, chúng ta có sự đa
dạng trong hợp nhất. Bảo tồn truyền thống phải được thực hiện với trí
tuệ và sự hiểu biết, chứ không phải với ảo tưởng và kiến chấp mù quáng.
Nếu chúng ta thực hành đúng đắn đối với vấn đề phát triển nhân cách,
nhân số sẽ tăng từ nhiều nhóm cô lập thành những cộng đồng toàn cầu,
một cộng đồng dung hòa cả tính khu vực và tính toàn cầu.
Con người được phát triển tốt đẹp sẽ tránh được phẩm tính xấu mà đạo
Phật gọi là chấp thủ (macchariya) trên năm phương diện.
Năm loại chấp thủ như sau:
Chấp thủ tính địa phương và tính quốc gia.
Chấp thủ về gia đình, dân tộc và tôn giáo.
Chấp thủ về sự giàu có vật chất.
Chấp thủ về giai cấp, bao gồm địa vị xã hội, màu da và nhiều vấn đề khác.
Chấp thủ về kiến thức và sự học hỏi, bao gồm những thành tựu trí thức và giải trí.
Sự phát triển nhân cách đúng đắn được biểu lộ qua sự vắng mặt của
năm loại chấp thủ kể trên và đề cao tính xả chấp hoàn toàn. Khi cần
định mức phát triển nhân cách, chúng ta phải để ý đến sự có mặt hay
vắng mặt của năm loại chấp thủ nầy.
Ðã đến lúc chúng ta phải dứt bỏ năm loại chấp thủ nầy để cứu thế
giới khỏi sự đe dọa của chiến tranh và tàn phá. Tuy nhiên, trong hiện
tại, hình như ở trạng huống ngược lại. Không giống như sự phát triển kỹ
thuật giúp đẩy mạnh truyền thông và sự tương duyên, thái độ tâm thức
căn bản của con người hiện tại lại là thái độ cạnh tranh dữ dội, tự bảo
tồn và bảo vệ quyền lợi của mình bằng sự thiệt thòi của kẻ khác. Nhân
quyền trở thành dụng cụ để bảo vệ quyền lợi cá nhân. Chúng giúp cho thế
giới tụ lại với nhau trong khi thế giới vẫn bị khống chế bởi nếp suy tư
chia rẽ.
Tôi đã nói về hai thái độ hay kiến chấp quan trọng đã ảnh hưởng đến
hành động của con người trong thời hiện đại: nhận thức đối kháng xem
cuộc đời, một mặt, như một cuộc chiến đấu chống lại đồng loại, mặt
khác, cũng chống lại thiên nhiên. Thái độ căn bản của con người là thái
độ tìm kiếm sự chiến thắng. Loại thái độ nầy không còn đứng vững nữa.
Chúng ta phải học sống hài hòa, với người khác và với môi trường thiên
nhiên. Chúng ta có hai người "bạn", người bạn nhân loại và người bạn
môi trường thiên nhiên. Họ không phải là đối thủ hay kẻ thù mà ta phải
chiến thắng, nhưng là những người bạn mà ta cần học để hợp tác.
Ðể thực sự giải quyết hai kiến chấp sai lệch nầy, chúng ta phải đào
sâu tới thái độ căn bản thứ ba từng tô điểm nhận thức con người, nhằm
đối phó với sự hiểu biết của chúng ta về ý nghĩa căn bản hay mục đích
của đời người. Con người đã từng khao khát tự do, nhưng định nghĩa của
họ về tự do thì không rõ ràng và bất nhất. Nhận thức về tự do thường
thấy trong nền văn minh hiện đại là sự vắng mặt của biện pháp hạn chế
từ bên ngoài, khả năng kiểm soát người khác và thế giới thiên nhiên.
Một nhận thức về tự do như thế đã điều kiện hóa cách thức chúng ta nhìn
những phẩm tính khác của đời sống, thí dụ như sự hạnh phúc. Nếu chúng
ta nhìn tự do như là khả năng kiểm soát và sử dụng sự vật khác, như
cách chúng ta tích lũy sở hữu vật chất và kiểm soát thiên nhiên, thì
khi ấy, chúng ta cảm thấy rằng chúng ta càng sở hữu nhiều thì chúng ta
càng hạnh phúc.
Hiện nay, nhận thức nầy đã sa lầy với sự xói mòn của môi sinh, và
chúng ta thấy rằng, tài nguyên thiên nhiên không còn đủ để minh chứng
nhận thức đó nữa. Ðiều nầy dẫn đến tình huống là chúng ta buộc phải
nhân nhượng, thỏa hiệp. Bằng một cách thức tương tự như khi chúng ta
nhân nhượng với nhau, chúng ta cũng buộc phải nhân nhượng với thiên
nhiên. Nếu chúng ta tìm kiếm hạnh phúc theo mức độ mà sự ham muốn đòi
hỏi thì sẽ không bao giờ chấm dứt sự sử dụng thiên nhiên. Làm như thế
là chúng ta tự đưa mình đến tình trạng nguy hiểm - vì tài nguyên thiên
nhiên bị tiêu mòn và môi trường sinh sống bị tổn hại, và sự an toàn của
chúng ta bị đe dọa. Và vì thế chúng ta phải tương nhượng. Ðể giữ cho
thiên nhiên và con người cùng tồn tại, chúng ta đồng ý từ bỏ một vài
thú vui cá nhân. Sự tương nhượng này được thực hiện vì nó cần thiết, và
chúng ta không cảm thấy hạnh phúc vì nó. Ðó là một sự hy sinh mà chúng
ta buộc phải làm để còn tồn tại. Lý do đã dẫn chúng ta đến tình huống
nầy là vì thái độ sai lầm của chúng ta.
Nói vắn tắt, để con người được sống hạnh phúc phải có tự do ở ba trình độ:
* Tự do đầu tiên là tự do được sống với thiên nhiên và môi trường
sinh sống. Chúng ta có thể gọi đây là tự do vật lý. Ðây là tự do khỏi
sự ràng buộc của ước muốn và sự tước đọat, chỉ cần cung cấp vừa đủ cho
bốn loại nhu yếu cần thiết cho đời sống - thực phẩm, quần áo, nhà cửa
và thuốc men (danh từ đạo Phật gọi là tứ sự). Ðiều nầy cũng bao gồm tự
do khỏi những thiên tai, và khả năng có thể đối phó với chúng khi chúng
xảy ra.
* Thứ hai, chúng ta phải có tự do trong quan hệ với đồng loại. Nghĩa
là, sống an toàn với nhau mà không bị bóc lột bởi kẻ khác. Chúng ta có
thể gọi đây là tự do xã hội.
* Tuy nhiên, hai hình thức tự do kể trên sẽ không thực sự có hiệu
quả nếu chúng không liên hệ đến hình thức tự do thứ ba, một tự do nội
tâm, tự do cá nhân. Phát triển nhân cách ở trình độ cá nhân, sẽ dẫn tới
sự tự do nội tâm, là nhiệm vụ quan trọng nhất của con người hiện tại.
Có tự do vật lý và tự do xã hội, chúng ta phải học cách sống độc lập
như thế nào, để được hạnh phúc và hài lòng với chính mình. Ðây là tự do
nội tâm. Ðây là niềm hạnh phúc hoàn toàn độc lập với bên ngoài, không
còn tùy thuộc vào sự bóc lột thiên nhiên hay đồng loại. Chúng ta trở
nên càng lúc càng có khả năng tìm thấy sự an lạc trong chính tâm hồn
chúng ta, bằng chính trí tuệ của chúng ta. Khả năng an lạc mà không có
sự bóc lột thiên nhiên và đồng loại là một dạng thức độc lập khỏi những
điều kiện thiên nhiên và xã hội. Niềm hạnh phúc càng độc lập thì sự tự
do vật lý và tự do xã hội càng được bảo đảm. Lúc đó, chúng ta sẽ có một
quan hệ tốt đẹp nhất với thiên nhiên và xã hội và sẽ không còn nhu yếu
bóc lột chúng.
Tự do nội tâm là một bảo đảm vững chắc nhất mà tự do vật lý và tự do
xã hội có thể đặt nền. Không có nó, hạnh phúc phải tùy thuộc vào sự bóc
lột môi trường bên ngoài. Bao lâu mà còn sự bóc lột như thế thì tự do
vật lý và tự do xã hội không phải là những hiện thực khả hữu. Tốt nhất,
phải là sự tương nhượng, một tình trạng mà con người buộc phải làm -
hoặc tránh đừng làm - điều gì đó để bảo tồn môi sinh. Tuy nhiên, nếu có
sự tự do nội tâm thì có thể có một thái độ hài hòa với môi sinh bên
ngoài, và nhân loại có thể đạt tới một niềm hạnh phúc vừa hài hòa vừa
quân bình.
Con người có tiềm năng rất lớn để đạt đến tự do ở trình độ cao,
nhưng vì ảo vọng về hạnh phúc dựa trên sự sở hữu vật chất và sự hưởng
thụ đầy kinh nghiệm cảm tính nên hạnh phúc của chúng ta bị buộc chặt
vào những đối tượng vật chất. Con người hôm nay thấy rằng họ không thể
có được kinh nghiệm an lạc trong chính họ, và họ buộc phải bóc lột
thiên nhiên và đồng loại. Thiếu khả năng có được hạnh phúc tự chính
mình, họ phải tìm kiếm những điều kiện bên ngoài. Càng nhiều người làm
như thế, vấn đề càng rắc rối. Không những chúng ta thiếu tự do và hạnh
phúc trong đời sống chúng ta, chúng ta còn đánh mất cả tự do vật lý và
tự do xã hội nữa. Thế nên, hình như là càng tiến bộ về vật chất, thì
chúng ta càng dễ đánh mất khả năng có được niềm hạnh phúc tự tại.
Với sự hiểu biết đúng đắn về ý nghĩa và mục đích của đời sống và bản
chất của tự do và hạnh phúc, chúng ta sẽ tiếp xúc với môi trường vật lý
trong một cách thức hài hòa. Bất cứ một sở hữu vật chất nào mà chúng ta
có được cũng chỉ là phụ trội, chứ không phải là yếu tố quyết định cho
sự hạnh phúc của chúng ta.
Rốt cùng, sự phát triển nhân cách sẽ dẫn tới sự tự do khỏi những "kẻ
thù" nội tại, dẫn tới tâm thức hoàn toàn tự do vượt khỏi ảnh hưởng nặng
nề của tham, sân, và si. Khi tâm thức của chúng ta hoàn toàn tự do khỏi
những sa đọa tinh thần, chúng ta cũng sẽ được tự do khỏi những đau khổ
tinh thần, là nguyên nhân chính tạo ra những vấn đề của môi trường xã
hội và vật lý. Với sự tự do nội tâm, không còn cần thiết phải bóc lột
môi sinh bên ngoài, thay vào đó, chúng ta có thể sống một cách thật sự
ích lợi.
Sự tương quan của chúng ta với môi trường thiên nhiên phải là một sự
tương quan cân bằng, tránh được những cực đoan. Một cực đoan là chỉ tập
trung vào việc sử dụng môi sinh bên ngoài. Còn cực đoan kia là hoàn
toàn không để ý gì đến chúng.
Cũng cần lưu ý là những người có khát vọng muốn chinh phục thiên
nhiên và sử dụng nó cho nhu cầu của họ thường nhìn thiên nhiên như là
một đối tượng hoàn toàn ngoại tại. Khi phải đương đầu với những vấn đề
nhân tính nội tại, thí dụ như khi được hỏi tại sao họ không làm gì về
tính ích kỶ và thù hận, họ thường cho rằng những điều đó là những điều
kiện tự nhiên của con người. Họ cảm thấy rằng nhân tính nội tại nầy nên
để cho nó tự do vận hành. Vậy là, nhận thức của họ về thiên nhiên có
tính bất nhất. Chỉ muốn chiến thắng thiên nhiên bên ngoài, họ lại không
coi nhân tính bên trong cũng là một điều kiện tự nhiên phải được chinh
phục.
Mặt khác, nếu chỉ đơn giản để cho thiên nhiên tự phát thì cũng là
một lỗi lầm. Công tác trình bày những vấn đề về môi sinh, nhận thức
những nhu yếu cần thiết của con người như thực phẩm, quần áo, nhà ở và
thuốc men, là những công tác cần thiết. Ðể có một quan hệ đúng đắn với
thiên nhiên, chúng ta phải thấy rõ hoàn cảnh của chúng ta bằng những
phương thức căn bản hơn. Chúng ta phải thấy rằng chính chúng ta là một
phần của thế giới thiên nhiên tương thuộc, chứ không phải là một thực
thể tách biệt, hay là chủ nhân ông, hay là người kiểm soát thiên nhiên.
Nếu chúng ta quán chiếu rằng, chúng ta là một phần của thiên nhiên, và
chúng ta thấy rằng những thay đổi trong thiên nhiên cũng có ảnh hưởng
đến chúng ta, thì hành động của chúng ta sẽ được kiềm thúc, xác định rõ
ràng và quân bình. Trong hoạt động của chúng ta liên quan đến môi
trường thiên nhiên, chúng ta sẽ chú ý đến mọi yếu tố có thể được, để
sao cho hoạt động của chúng ta được ích lợi nhất về mọi mặt, bao gồm cả
môi trường thiên nhiên nữa. Một sự quân bình sẽ được thiết lập. Bao lâu
mà chúng ta nhận rõ vị trí của chúng ta trong suốt tiến trình thiên
nhiên, chúng ta sẽ có thể hoạt động một cách thành công như là một yếu
tố trong toàn thể tiến trình. Hoạt động của chúng ta sẽ được hướng dẫn
bằng trí tuệ và chánh kiến.
Thời nay, người ta đã bàn nhiều về một sự phát triển có thể chấp
nhận được và đặt nền kinh tế liên hệ tới sinh thái học (ecology). Ðể
cho nền kinh tế được lành mạnh thì thiên nhiên cũng phải được lành
mạnh. Ðây là một nhận thức cần thiết cho sự tương nhượng, như tôi đã
nói ở trên. Sự thành công thực sự của chúng ta về vấn đề nầy tùy vào
khả năng thay đổi quan điểm căn bản của chúng ta về mục đích của đời
sống và quan niệm của chúng ta về hạnh phúc và tự do.
Ở đây, chúng ta không thể không lưu tâm đến vai trò quan trọng của
truyền thông trong việc giới thiệu và ảnh hưởng đến những giá trị xã
hội và quan điểm của công chúng. Nếu tiềm năng của truyền thông và kỹ
thuật thông tin được hướng tới việc cổ võ cho ba chánh kiến căn bản và
những giá trị xã hội tương xứng của chúng - thay vì nhằm giới thiệu và
phổ biến tham, sân, si và những giá trị xã hội tương xứng của chúng
(đáng ghét, nhưng đang được thịnh hành phổ biến) - thì chúng có thể
giúp rất nhiều trong việc giải quyết những vấn nạn toàn cầu và sưĩ phát
triển của nhân loại.
Một cách căn bản hơn, hệ thống giáo dục - mặc dù ít có ảnh hưởng
bằng hệ thống truyền thông - phải có nhiều ý nghĩa hơn chứ không phải
chỉ nhằm vào việc chuẩn bị cho có việc làm và chỉ phục vụ cho guồng máy
cạnh tranh xưa cũ. Giáo dục phải giữ một vai trò quan trọng trong việc
phát triển nhân cách, trong đó phải hướng tới mục đích là khuyến khích,
cổ vũ cho ba chánh kiến nêu trên. Chánh kiến có thể được thiết lập
trong xã hội qua hệ thống giáo dục như thế.
Trong lãnh vực chính trị, giờ đây, chế độ dân chủ đang trên đường
chiến thắng. Tuy nhiên, trong thực tế, công trạng của nó vẫn còn phải
đặt câu hỏi và khả năng cứu giúp của nó vẫn còn phải hoài nghi. Bao lâu
mà nền dân chủ còn bị chi phối bởi ba tà kiến trên, thì nó không thể
đưa chúng ta đến nền hòa bình và an toàn thật sự.
Ngày nay, hình như có một cố gắng gán ghép và ngay cả đồng nhất hóa
chế độ dân chủ và chủ nghĩa tư bản, như trong cụm từ "dân chủ và nền
kinh tế thị trường tự do" hay "nền dân chủ thị trường tự do". Thật đáng
nghi ngờ việc chế độ dân chủ được ghép hay đồng nhất hóa với chủ nghĩa
tư bản, hoặc là trên thực tế, nếu ghép chế độ dân chủ với chủ nghĩa tư
bản, thì đó có phải là điều thực sự mong muốn hay không? Chủ nghĩa tư
bản và chủ nghĩa xã hội, bề ngoài có vẻ như là hai hệ thống đối nghịch
và khác biệt, nhưng trong thực tế, cả hai cùng qui tụ dưới chủ nghĩa
duy vật và cả hai được đặt nền trên ba tà kiến đã nói - đầy tư tưởng
chia rẽ và xung đột. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội cộng sản không
chứng minh tính đúng đắn của chủ nghĩa tư bản. Ngược lại, nó ngầm cho
thấy rằng, trong hai hệ thống ưu việt của chủ nghĩa duy vật, sự sụp đổ
của một hệ thống đã xảy ra, thì sự sụp đổ của hệ thống kia có thể xảy
ra. Bây giờ, rõ ràng là, người ta tố cáo và phàn nàn về những hậu quả
bất lợi của sự phát triển kinh tế dưới nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Ðể
chế độ dân chủ có tính đúng đắn, tự nó phải gạt bỏ những yếu tố tai hại
như thế và phải tự thiết lập một nền tảng ý thức hệ đúng đắn. Kinh tế
không phải chỉ cần cải cách hoặc thay đổi, mà còn cần phải chuyển đảo
trong chính nền tảng lý thuyết của nó.
Trong căn bản, cần phải mưu cầu sự phát triển kinh tế nhịp nhàng và
quân bình với phát triển nhân cách. Ngược lại, phát triển kinh tế chỉ
là hão huyền. Ðôi khi, phát triển kinh tế do ở sự phá hoại môi trường
thiên nhiên, đôi khi do ở sự bóc lột người hay dân láng giềng, và đôi
khi cũng hy sinh cả thân phận con người. Một thí dụ đơn giản của điều
nầy là việc hành nghề mãi dâm chuyên nghiệp, một người có thể đồng ý,
hoặc bị bắt buộc, hoặc hy sinh nhân cách chỉ để có tiền thôi. Kinh tế
phát triển cũng chỉ là hão huyền trong một vài quốc gia với sự phát
triển kinh tế cao nhưng an sinh kinh tế rất thấp, trong trường hợp nầy,
không phát triển kinh tế nhưng có an sinh kinh tế cao có thể là một
giải pháp tốt hơn.
Tình huống hiện tại là, để xây dựng hạnh phúc cho một nhóm nhỏ thì
nhóm người đông hơn và môi trường thiên nhiên nói chung phải chịu thiệt
hại. Cho dù cả thiên nhiên bị tàn phá trong tiến trình kiếm tìm hạnh
phúc, chúng ta cũng không tìm thấy được hạnh phúc đâu. Ðức Phật đã từng
nói là cho dù có cả một núi vàng cũng không làm cho con người hài lòng.
Cho dù con người tranh giành với nhau cho đến khi toàn xã hội tan rã,
họ cũng không tìm thấy hạnh phúc. Mọi người đều tìm kiếm và tranh đấu
cho hạnh phúc, nhưng có mấy ai tìm được.
Trong cộng đồng thế giới, nề nếp suy tư cũ kỹ đầy óc bè phái và chia
rẽ, không còn đứng vững được. Nó sẽ không cho phép thế giới sống trong
hòa bình. Những hệ thống đạo đức trong thế giới hiện đại, như hạn chế
tiêu phá thiên nhiên, sự khoan dung tôn giáo và nhân quyền, chỉ là một
cố gắng tương nhượng để bảo vệ và duy trì thế giới. Chúng phải được ủng
hộ bởi những tiêu chuẩn đạo đức tích cực hơn và một nề nếp suy tư mới.
Trong chiều hướng đó, đạo Phật dạy rằng:
Con người là một yếu tố trong toàn hệ thống thiên nhiên vận hành
theo nguyên lý nhân quả và duyên sinh, trong đó mọi yếu tố đều giữ một
vai trò của mình. Vì thế, mọi hoạt động cần phải hài hòa và tạo ích lợi
cho hệ thống đó.
Mọi hiện hữu, bao gồm con người và thú vật, đồng trú trong hệ thống
qui luật thiên nhiên nầy. Mọi sinh vật đều muốn được hạnh phúc và tránh
đau khổ, và đều sợ chết. Tất cả đều giống nhau về điều nầy, bình đẳng
và đồng đều. Không có sự phân biệt hay biệt đãi nào trước qui luật
thiên nhiên. Giết hại sinh vật cho dù dưới bất cứ hình thức nào cũng là
tội ác; chúng ta nên đề cao lòng từ bi và hài hòa, tương trợ và hợp
nhất.
Một đời sống tốt đẹp và cao thượng nhất là được tự do, đây là niềm
chân hạnh phúc. Vượt qua và bên trên hai loại tự do ngoại tại - gồm tự
do vật lý, liên quan đến môi trường thiên nhiên và bốn nhu yếu cần
thiết cho đời sống, và tự do xã hội, không bị những phiền nhiễu xã hội
- là sự tự do ở trình độ cao hơn - trình độ nội tâm, là kết quả của sự
phát triển nội tâm. Ðó là sự trưởng thành của trí thức và tâm thức. Nó
dẫn tới một loại hạnh phúc càng lúc càng độc lập, và giờ đây, nó giúp
chúng ta có thể tiếp xúc với môi trường bên ngoài và hoàn cảnh xã hội
một cách xây dựng và tích cực hơn.
Phải nhận rằng chúng ta tùy thuộc vào hoàn cảnh thiên nhiên và xã
hội, vì thế, hai loại tự do đầu tiên là điều kiện cần thiết để chúng ta
phát triển tự do nội tâm. Ngược lại, tự do nội tâm là nền tảng để tự do
vật lý và tự do xã hội dựa vào, và cũng là một bảo đảm cho chúng. Nếu
con người tự phát triển và đạt được tự do nội tâm, thì chúng ta không
cần phải đòi hỏi tự do khỏi hoàn cảnh bên ngoài. Thay vào đó, những giá
trị đạo đức tích cực sẽ được phát triển. Và sẽ có sự hài hòa mà không
cần phải tương nhượng.
Trong hoàn cảnh như vậy, phát triển kinh tế sẽ được quân bình bởi sự
phát triển nhân cách, phù hợp với mục đích của Hội Nghị Tôn Giáo Thế
Giới nầy, nhằm ủng hộ "sự cộng tác trong tương lai và cùng hoạt động
cho hòa bình, cho sự thuyên giảm nỗi đau khổ, và cho sự bảo vệ hành
tinh nầy".
Nếu chúng ta còn dính mắc vào ba kiến chấp và nhận thức xưa, thì nỗ
lực tìm kiếm hạnh phúc của chúng ta sẽ phá hủy ba mục tiêu cao thượng
nầy. Mặt khác, nếu chúng ta thực hiện theo những quan điểm hài hòa và
thiện lành, và khuyến khích sự phát triển hạnh phúc nội tâm, chúng ta
sẽ có thể đạt được những mục tiêu nầy.
Trong đạo Phật, chúng tôi cho rằng một người chứng đạt được trình độ
phát triển tâm linh cao nhất là người đã hoàn toàn diệt được tham, sân,
si trong tâm họ. Tuy nhiên, sự tu tập phải từ từ, đòi hỏi thời gian.
Ðối với con người bình thường, sự đo lường chắc chắn nhất của việc phát
triển nội tâm là sự chấm dứt tà kiến. Nếu ta từ bỏ được tà kiến và phát
triển chánh kiến, thì cho dù tham và sân vẫn còn, ngay đến có thể vẫn
còn ngã chấp, thì chúng đã ở một mức độ nhẹ hơn nhiều. Vì chúng không
được nâng đỡ và xây dựng trên tà kiến, chúng sẽ không tồn tại dai dẳng
và không ở mức độ phổ biến. Ngược lại, nếu lòng tham và sân hận được
củng cố bởi tà kiến, chúng sẽ dữ dội hơn và tạo hậu quả rộng hơn. Ðó là
lý do tại sao trong đạo Phật việc phát triển nhân cách đã nhấn mạnh đến
việc diệt trừ tà kiến.
Khoa học và giáo dục sẽ có một nền tảng tốt nếu được phối hợp với
chánh kiến. Các khoa học ứng dụng và vật lý cũng như kỹ thuật sẽ được
thúc đẩy bởi lòng ham muốn kiến thức thuần túy và bởi phẩm chất của đời
sống chứ không phải bởi tham vọng muốn bóc lột thiên nhiên cho sự chiếm
hữu ích kỶ. Các khoa học xã hội sẽ không nhìn nhân loại bằng một nhãn
quan thấp kém què quặt về một xã hội con người tách rời khỏi thiên
nhiên, như là một tập họp của những bè nhóm rời rạc đầy những tranh
chấp quyền lực, mà thay vào đó, nhìn con người như những bạn đồng hành
trong thế giới thiên nhiên nầy. Các khoa học nhân văn nên quan tâm đến
nỗ lực nhằm nhận thức được phẩm chất cao quí nhất của con người, đó là
sự tự do nội tâm. Từ đó, điều nầy sẽ trở thành một nền tảng cho sự phát
triển thích hợp của các khoa học thiên nhiên và xã hội.
Con người trong thế kỷ 20 đã tạo nhiều nghiệp bất thiện, và sẽ ảnh
hưởng đến nhân loại trong thế kỷ 21. Ðó là di sản gồm nhiều vấn đề mà
công dân trong thế kỷ 21 phải đối phó. Ðể giúp giải quyết những vấn đề
nầy và bảo đảm rằng thế kỷ 21 là một thế kỷ an hòa, ngay bây giờ, chúng
ta phải thảo luận những phương thức để giải quyết vấn đề đó. Nếu chúng
ta có thể tu chỉnh quan điểm của chúng ta như tôi đã trình bày ở đây,
thì hy vọng là, chúng ta có thể giải quyết những vấn đề đó một cách
thành công.
Ba kiến quan mà tôi đã diễn tả ở đây rất thích hợp cho thời đại của
chúng ta, khi mà môi trường thiên nhiên đang ở tình trạng hao mòn và bị
tiêu hủy. Thế giới sinh hoạt của con người như thu hẹp lại. Ðã đến lúc
chúng ta phải học cách sống với nhau, và điều nầy chỉ có thể có được
khi chúng ta phát triển sự tự do không lệ thuộc vào hoàn cảnh bên
ngoài, và chúng ta nên học cách giúp đỡ và ủng hộ điều nầy. Bằng cách
nầy, chúng ta sẽ có thể đạt được sự tự do chân chính và niềm hạnh phúc
chân chính./.