Nhưng với người viết bài
này, Phật giáo Ấn Độ không đơn thuần suy vong bởi những phá hoại ấy mà
do chính những người vẫn hằng ngày thờ lạy Đức Phật...
Phật giáo ví như những bó mạ được gieo trên mảnh ruộng Ấn
Độ. Những cây mạ non được nhổ đi cấy trên nhiều mảnh ruộng khác và đã
tạo ra rất nhiều đồng lúa trĩu hạt, thế mà trên mảnh ruộng gốc kia, mạ
lại chẳng cho được hạt nào. Nghĩ như thế cũng có phần hời hợt, bởi vì
kỳ thực nhân sinh quan Phật giáo đã ăn sâu vào đời sống, nếp ăn nếp
nghĩ của người Ấn Độ đến mức khiến cho người vội vàng khó nhận ra được
nó. Người ta gọi đó là thứ văn hóa chiều sâu (deep culture), còn sự
phát triển trên bề mặt (surface development) của Phật giáo Ấn Độ đến
nay gần như tuyệt diệt. Những người chủ của các đồng lúa trĩu hạt kia
(như người Nhật Bản, Trung Hoa, Thái Lan, Tích Lan, Miến Điện, Tây
Tạng…) và cả những người mới nhân giống trên mảnh đất màu mỡ của họ (như
các nước Âu Mỹ) đang đem những hạt giống Phật giáo về gieo lại trên
mảnh ruộng Ấn Độ. Nghĩa cử đó có thể là biểu hiện của lòng nhớ nguồn
nhớ cội, cũng có thể vì người ta hiểu rằng, trên xứ sở tâm linh kia, xứ
sở có một nền văn hóa lâu đời nhất thế giới, có những ngọn núi cao
nhất thế giới, có những con sông dài nhất thế giới, có những vĩ nhân
lớn nhất thế giới, cội nguồn của mọi tôn giáo và triết học, chắc chắn
hạt giống Phật giáo sẽ lại ươm mầm mạnh mẽ nếu người ta biết chắt lọc,
phân định, không để chúng lẫn lộn với những hạt giống khác, và không để
những thứ cỏ dại làm ảnh hưởng đến hạt giống hiền hòa kia.
Trước khi tôi đi Ấn Độ, một người bạn đã bảo tôi rằng: “Đi Ấn Độ mà
làm gì! Phật giáo chẳng còn gì ở đất nước ấy cả”. Nhưng khi thong thả
chu du khắp các vùng Nam-Bắc Ấn, tôi chợt nhận ra rằng vẫn chưa có một
định nghĩa chính xác về Ấn Độ, bởi Ấn Độ là một đất nước có nhiều tầng
văn hóa trong cùng một không gian và thời gian. Nếu bạn thử dạo chơi
vào một buổi chiều ở thành cổ Ba-la-nại (Vanares) hay Calcutta, bạn sẽ
cảm thấy vô cùng thú vị, khi trên cùng một đường phố dọc bờ sông Hằng
(Ganga), những ngôi thành cổ bên cạnh những tòa cao ốc cực kỳ hiện đại,
trong khi bên dưới vẫn còn những người sống một đời sống cây cỏ như
cách nay mấy ngàn năm. Trên đường còn nguyên vẹn những đường ray xe
điện với những chuyến tàu ngang dọc có từ thời thuộc địa Anh, trong khi
dưới lòng đất là cả một hệ thống metro hiện đại chằng chịt. Những gã
nhà giàu bụng bự bóp còi xe inh ỏi chở những cô gái mang sắc phục Hồi
giáo phủ voan đen kín mặt; những đạo sĩ Hindu tay khoát nước sông Hằng
hướng về phía mặt trời cầu nguyện; những chàng trai đạo Sick tóc dài
bới cao bởi một chiếc khăn; những chú bò đi nghênh ngang trên đường phố
đông người; những chàng Tây ba lô lội vào các hàng quán mua vải lụa
Kasia dệt bằng máy dệt thô sơ thời trung cổ; những người kéo xe tay,
chiếc xe chỉ có hai cần và hai chiếc bánh to hơn bánh xe bò; và cả
những giáo sĩ đạo Kỳ-na (Jainism) lõa lồ ngang nhiên trên đường phố...
Tất cả đều ở trong cùng một không gian, một thời gian... Ấn Độ!
Với những thứ người ta nhìn thấy được, đúng là Phật giáo không còn ở
Ấn Độ, ngoài Tứ động tâm (bốn thánh tích Phật giáo quan trọng) và
những hang động vùng Nam Ấn. Nhưng ngắm nhìn một cách kỹ lưỡng hơn, ta
thấy Phật giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống của người dân Ấn Độ.
Vào thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, có một vị vua tên A-dục (Asoka) đã
kính ngưỡng Phật giáo và sắc ban những đạo luật quan trọng. Rất nhiều
ảnh hưởng của Phật giáo qua vị vua này vẫn còn hiện diện, như việc hết
sức hạn chế không phá hoại cây rừng, không bắn giết chim thú, thiết lập
những bồn nước uống cho người qua đường dọc các đường phố... Ngày nay,
giữa thủ đô Delhi vẫn còn một mảng rừng nguyên sinh, và người ta tôn
trọng cây cối đến nỗi trên một đoạn đường cao tốc vẫn còn những cây cổ
thụ chắn ngang giữa đường mà không bị đốn phá, chim thú vẫn sống xen lẫn
với người, khách bộ hành không có tiền dù đi khắp thành thị thôn quê
vẫn không sợ khát. Đó là nói về văn hóa vật thể, còn văn hóa phi vật
thể của Phật giáo trong đời sống người dân Ấn Độ thì rất sâu đậm như:
thái độ trước cái chết, tính hiền hòa hỷ xả, niềm tin sâu sắc vào đời
sống tâm linh, xem thường vật chất, thích ăn chay, kiêng rượu thịt...,
tất cả hòa quyện với văn hóa Hindu, khiến chúng ta khó lòng nhận ra màu
sắc Phật giáo. Bên cạnh đó, những bữa cơm thường ngày của người dân Ấn
là cơm chay, và nhà hàng nào ở Ấn cũng chua dưới bảng hiệu một câu Veg
and Nonveg (Chay và không chay). Thức ăn chay hầu hết dành cho dân bản
xứ, thức ăn mặn dành cho du khách. Điều ngạc nhiên nhất của tôi là khi
đi vào bất kỳ quán ăn nào ở Ấn Độ cũng thấy có sẵn đồ chay.
Người ta nói Phật giáo mất dấu ở Ấn Độ là do người Hồi giáo, từ thế
kỷ thứ tám đến thế kỷ mười hai đã phá họai, san bằng những Thánh tích
và giết sạch những tu sĩ Phật giáo. Nhưng với người viết bài này, Phật
giáo không phải suy vong ở Ấn Độ bởi những người phá hoại Phật giáo, mà
do chính những người vẫn hằng ngày thờ lạy Đức Phật.
Đạo Hindu được xem như là quốc giáo của Ấn Độ, có truyền thống từ
mấy nghìn năm, trước cả khi Đức Phật ra đời. Khi còn là một thái tử,
Đức Thế Tôn cũng từng được học Tứ Phệ-đà Thánh điển của Bà-la-môn. Một
số quan niệm của Phệ-đà (Veda) và Áo Nghĩa Thư (Upanisad) vẫn còn dấu
ấn trong kinh điển Phật giáo. Sau khi Đức Thế Tôn thành đạo và giáo hóa
ở Ấn Độ, người Ấn, đặc biệt là người theo Bà-la-môn giáo đã xem Đức
Phật như một vị thần trong tín ngưỡng của họ. Và người ta vẫn hằng ngày
thờ lạy Đức Phật như thờ lạy một thần linh. Trong khi quan niệm của
Bà-la-môn là hữu ngã, thế giới này do Braman sáng tạo ra, thì Đức Phật
lại chủ trương vô ngã, vạn pháp duyên sinh. Thế rồi người ta chắt lọc
hết những tinh ba của văn hóa Phật giáo - ngoại trừ quan niệm về Ngã -
đem vào văn hóa truyền thống của họ, và người ta không còn quan tâm đến
cái gì là của Phật giáo. Phật giáo hòa nhập vào trong họ, nhất là hình
thức bên ngoài, dần dần được Hindu hóa. Ngay trong những Thánh tích
Phật giáo quan trọng như Tứ động tâm, người ta cũng dựng cả một đền thờ
Hindu phía trước, họ đem cả Linga vào đặt trước điện Phật, rồi hàng
ngày, bao người lũ lượt vào lạy lục cầu nguyện, và thờ Phật theo quan
niệm Hindu.
Văn hóa có sức mạnh vô cùng to lớn, nhất là khi văn hóa được duy trì
bằng phương cách bảo thủ thì không có sức mạnh nào có thể phá hủy
được. Những Thánh tích Phật giáo bị Hồi giáo phá hủy có thể xây dựng lại
được, nhưng văn hóa Phật giáo đã được Hindu hóa rồi thì rất khó nhận
ra.
Từ văn hóa Phật giáo Ấn Độ, liên hệ đến văn hóa Phật giáo Việt Nam,
xem ra, với những gì người ta thấy được, Phật giáo Việt Nam cũng là một
trong những nước Phật giáo mạnh nhất thế giới.
Ở Việt Nam hiện tại có khoảng hơn 70% dân số là Phật tử hoặc tự nhận
mình là Phật tử, theo đạo Phật, có hơn 20 nghìn tu sĩ, chùa chiền có
mặt khắp chợ cùng quê. Dân tộc Việt Nam nói có hơn 4.000 năm văn hiến,
nhưng những gì còn được ghi lại thực chất chỉ hơn 2.000 năm. Và ngót
khoảng thời gian ấy là có sự hiện diện của Phật giáo. Nếu không có văn
hóa Phật giáo ăn sâu vào tâm hồn người dân Việt, dân tộc Việt Nam hẵn
đã bị Nho hóa một cách cứng nhắc bởi 1.000 năm Bắc thuộc rồi. Thậm chí
nếu không có văn hóa Phật giáo với khả năng dung hòa và uyển chuyển,
bản đồ Việt Nam cũng có thể đã thuộc về phương Bắc. Nói như thế không
phải là quá đáng, bởi chúng ta đã bị họ đô hộ, chúng ta dùng ngôn ngữ
văn tự của họ, sống theo nhân sinh quan của họ. Nhưng có nhiều cuộc đại
thắng phương Bắc của dân tộc ta là do chính những triều đại, những ông
vua Phật giáo, hoặc những ông vua trị quốc dưới sự cố vấn của các nhà
sư Phật giáo làm nên. Điều ấy là lịch sử hiển nhiên không cần phải bàn
cãi. Thế thì việc bảo tồn, phát huy văn hóa Phật giáo là việc làm quan
trọng để duy trì và phát triển văn hóa dân tộc, sự tồn sinh của dân
tộc. Sự bảo tồn và phát huy ấy phải nằm trong một chiến lượt lâu dài,
cả vĩ mô lẫn vi mô, bằng ý thức của chính những người lãnh đạo và khắp
nhân dân.
Với văn hóa Phật giáo Việt Nam hiện đại, nếu nhìn từ sự suy vong của
Phật giáo Ấn Độ, hẳn có nhiều điều để chúng ta suy ngẫm. Chúng ta tự
hào là một nước Phật giáo mạnh, nhưng thực chất nó đang mạnh trên bề
mặt, còn chiều sâu văn hóa đã dần cạn đi bởi rất nhiều lý do chủ quan
và khách quan. Nếu không khôi phục và phát huy chiều sâu văn hóa thì
Phật giáo Việt Nam rồi cũng sẽ suy vong bởi chính những người đang thờ
lạy hoặc cổ xúy Phật giáo. Đứng về văn hóa vật thể mà đại biểu là kiến
trúc và các Thánh tích Phật giáo, nếu chỉ so sánh với Ấn Độ thôi, chúng
ta cũng chỉ là một cành cây trụi lá giữa đồng hoang so với mảng rừng
trù phú của Ấn Độ. Ngoài Tứ động tâm được xem là di sản văn hóa lớn của
nhân loại, Ấn Độ còn có vô số những di chỉ quan trọng khắp vùng Nam Ấn
như Đại tháp Sanchi, quần thể hang động Phật giáo ở Aurangabad (như
Ajanta, Ellora), Hyderabad, Mumbai, Puné, Nagajruna v.v… Đó là những kỳ
quan thế giới được tạo dựng trên hai ngàn năm, trải qua nhiều thế hệ,
bảo lưu vô số những công trình hội họa, điêu khắc và đặc biệt là linh
khí hội tụ từ lịch đại Tổ sư Phật giáo. Hàng ngày, có hàng triệu lượt
du khách từ khắp mọi nơi trên thế giới đến chiêm bái, cầu nguyện và
tham quan du lịch. Du lịch Ấn Độ là du lịch tâm linh. Hành hương chính
là hồi hương về những miền đất thánh của tâm hồn. Và điều làm tôi ngạc
nhiên nhất là những du khách đến tham quan những di tích Phật giáo Ấn
Độ nhiều nhất lại là những người đến từ một cường quốc kinh tế thế giới:
Nhật Bản. Đất nước Nhật như chiếc thuyền con giữa đại dương, họ hiểu
hơn ai hết khi một chiếc thuyền bị nghiêng một bên thì nó sẽ bị chìm.
Nên một mặt họ phát triển kinh tế, một mặt họ tạo điều kiện cho dân đi
du lịch tâm linh khắp thế giới, hấp thụ tinh ba của nhân loại về làm
giàu cho văn hóa của họ. Chính Suzuki, một học giả người Nhật nổi tiếng
thế giới đã từng nói: Xã hội giống như một chiếc ghế ba chân, nếu cứ
kéo dài cái chân ghế kinh tế và khoa học kỹ thuật trong khi hai chân
ghế đạo đức tâm linh và thuần phong mỹ tục ngày càng ngắn lại thì chiếc
ghế sẽ mất thăng bằng, sẽ ngả đổ. Đó là những bài học quý báu trên
chiến lượt phát triển văn hóa dân tộc. Ở Việt Nam, những kiến trúc Phật
giáo hàng ngàn năm còn lại chỉ là một vài, một phần do binh lửa chiến
tranh, một phần do chính con người phá hoại. Ngày nay người ta cũng có ý
thức bảo tồn, nhưng không hoàn toàn vì mục đích Phật giáo. Văn hóa
Phật giáo không thể phát huy nếu mục đích bảo tồn và phát huy ấy nằm
ngoài mục đích Phật giáo. Hàng ngày có hàng triệu người Việt nam đến
các chùa lễ Phật, nhưng được bao nhiêu người lạy Phật theo tinh thần
Phật giáo? Hàng ngày có hàng ngàn người đến viếng thăm lăng Hồ Chủ Tịch,
nhưng được mấy người biết rằng có một tòa kiến trúc được xem là biểu
tượng của kiến trúc Việt Nam có từ thời Lý - Chùa Một Cột - đang đứng
một cách khiêm tốn, u khuất và nhỏ nhoi giữa viện bảo tàng và Lăng Bác?
Sách báo thời đại thông tin lan tràn, nhưng những gì viết về văn hóa
Phật giáo hoặc đạo đức tâm linh chỉ như muối bỏ biển. Đó là chưa nói
đến sự tấn công từ nhiều mặt, sự tiếp nhận văn hóa phương Tây một cách
thiếu chọn lọc đang làm băng hoại dần văn hóa bản địa, héo úa tình
thương, bào mòn tính nhân bản. Để bảo tồn và phát huy văn hóa Phật giáo,
người viết xin góp vài ý kiến nhỏ nhoi:
- Đối với những di chỉ Phật giáo, hãy dành cho nó một vị trí khang
trang, xứng với tầm vóc của nó, tạo một không khí du lịch tâm linh rộng
rãi.
- Khơi dậy truuyền thống dân tộc, niềm tự hào dân tộc bằng chính trí
tuệ, tình yêu và tâm hồn người Việt, không phải ở những chiến công,
súng đạn hoặc lòng hận thù.
- Tổ chức các đoàn thể sinh hoạt văn hóa trên cơ sở giáo lý Phật
giáo, giúp thanh thiếu niên có môi trường sinh hoạt, vui chơi giải trí
lành mạnh.
- Đăng tải trên những phương tiện truyền thông đại chúng những tác
phẩm, những bài khảo cứu, bài viết có nội dung hướng về đạo hiếu nguồn
ân, tránh xa những văn hóa dục lạc, đồi trụy.
- Bồi dưỡng nhân tài, dành mọi ưu tiên cho những con người và tổ chức có khả năng hướng đạo tâm linh.
Như trên chỉ là vài ý kiến, vài góc nhìn, mục đích chỉ là góp phần
nhỏ bé vào công cuộc bảo tồn và phát huy truyền thống tốt đẹp vốn có
của Dân tộc, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội phồn vinh theo phương
châm của nhà nước đã đề ra.