Nếu
chúng ta chịu khó vào website của một vài tôn giáo chúng ta sẽ
thấy thống kê số tín đồ tân tòng mỗi năm được đưa ra như một bằng chứng
cụ thể chứng tỏ tôn giáo của mình là tôn giáo tốt đẹp, mỗi ngày mỗi đựơc
nhiều người tin theo, giống như các công ty thương mại trình bày số
thương vụ mỗi năm để chứng tỏ công ty của họ thành công và càng ngày
càng được công chúng ưa chuộng.
Tuy nhiên thời đại bây giờ trí tuệ con người mở mang rất nhiều. Cuộc
cách mạng về thông tin và phương tiện giao thông tiến bộ làm cho thế
giới nhỏ lại và con người hiểu biết nhau nhiều hơn. Quyền thông tin,
trao đổi tư tưởng, trình bày sự thực của lịch sử, quyền tự do tư tưởng
không một quyền lực nào có thể ngăn cản được. Sự cáo chung của chủ nghĩa
thực dân, chủ nghĩa đế quốc, sự độc lập của các quốc gia – dù là quốc
gia nhỏ bé khiến cho tiếng nói nào cũng được mọi người lắng nghe hoặc
phải lắng nghe. Mọi người đều bình đẳng, mọi quốc gia đều bình đẳng, mọi
tôn giáo đều bình đẳng. Đã qua rồi thời kỳ áp đặt, khống chế, lừa mị,
che dấu.
Đạo Phật ra đời cách đây hơn 2500 năm giữa lúc Bà La Môn hay Ấn Độ
Giáo cực thịnh tại Ấn Độ. Khi Đức Phật tại thế và sau khi Đức Phật nhập
diệt một thời gian ngắn – là thời kỳ vàng son của Phật Giáo do chủ
trương bình đẳng xã hội, muôn loài chúng sinh đều bình đẳng, không van vái thần linh mà dùng Trí Tuệ và Từ Bi
– thông qua Thập Thiện, Bát Chánh Đạo, Lục Hòa v.v.. để giải quyết mọi
vấn đề của xã hội và con người. Sau đó Đạo Phật lan rộng, về phía Bắc
tới Tây Tạng. Về phía Nam tới Tích Lan, về Đông Á tới A Phú Hãn
(Afghanistan) về phía đông tới Mông Cổ, Trung Hoa rồi Triều Tiên, Nhật
Bản. Về Đông Nam Á tới Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Việt Nam.
Tại Việt Nam, theo Kiêm Đạt trong Đạo Phật Ngày Nay “Thành
Luy Lâu là toà thành đầu tiên tại Tỉnh Bắc Ninh mà Phật Giáo từ Ấn Độ
đã truyền bá sang trên phần đất Giao Chỉ. Vào thế kỷ thứ II trước Tây
Lịch, những đoàn buôn Ấn Độ đầu tiên đã đến buôn bán tại Luy Lâu; đi
theo họ còn có những tăng lữ Phật Giáo”.
Có thể nói Đạo Phật từ Ấn Độ truyền bá đi khắp nơi bằng con đường hòa bình.
Điều đó có nghĩa là Phật Giáo không đến các xứ bằng con đường chinh
phạt hoặc lùng kiếm thuộc địa. Chúng ta không thể tìm thấy trong bất kỳ
giáo hội Phật Giáo của các quốc gia theo Phật Giáo nào một tổ chức gọi
là “Phái Bộ Truyền Giáo” để thiết lập kế hoạch
đem Phật Giáo ra nước ngoài. Phật Giáo cũng không liên kết với bất cứ
một đế quốc nào, một siêu cường nào, một quốc gia hùng mạnh nào để bành
trướng. Phật Giáo truyền đến các nơi khác nhờ một số thương buôn Ấn Độ
hoặc một số vị sa môn “xuất dương” đến tu hành
tại một quốc gia nào đó. Do đức độ tỏa sáng, lâu rồi vua, quan, dân
chúng địa phương tin theo vị sa môn này rồi họ tự động truyền bá Phật
Giáo hoặc cho phép truyền bá trong quốc gia họ. Tuy nhiên sau khi Đức
Phât nhập diệt, Phật Giáo từ từ suy tàn ngay trên quê hương mình. Theo
một số học giả nghiên cứu về Phật Giáo thì chính Ấn Độ Giáo và những
cuộc xâm lăng của Hồi Giáo sau này đã là nguyên ủy nói trên. Hồi Giáo
khi tiến vào Ấn Độ đã triệt hủy cả Ấn Độ Giáo lẫn Phật Giáo. Rồi sau khi
Đức Phật nhập diệt, Phật Giáo không còn được các vua quan Ấn Độ ưa
chuộng nữa bởi vì nó làm chướng ngại cho chủ trương phân chia giai cấp.
Theo kinh điển Ấn Độ Giáo, giai cấp cùng khổ/tiện dân (Untouchables)
không thể nào bình đẳng với các giai cấp khác. Cho tới ngày hôm nay,
mặc dù thế giới tiến bộ như thế, việc nâng cao thân phận xã hội của tầng
lớp tiện dân Ấn Độ vẫn gặp phải những chống đối mãnh liệt, ngay cả
trong các đại học là nơi được giảng dạy những tư tưởng tiến bộ nhất. Còn
tại những nơi khác trên thế giới, số phận của Phật Giáo cũng thật hẩm
hiu. Sự bột phát của Chủ Nghĩa Thực Dân, chủ nghĩa đem pháo thuyền đi
xâm lăng, săn lùng thuộc địa để làm giàu cho “mẫu quốc” của các đế quốc hùng mạnh Âu Châu đã là một thảm họa cho nhân loại trong đó có Phật Giáo. Hầu như không một quốc gia “phi Âu Châu”
nào thoát khỏi thân phận nô lệ! Tại các quốc gia nô lệ, văn hóa bản địa
bị triệt hủy. Tôn giáo bản địa nếu còn sống sót thì cũng phải nép mình
vào làng quê, hang cùng ngõ hẹp, thôn xóm hẻo lánh để tồn tại. Ít ra
trong một thế kỷ, tại Việt Nam, Đạo Phật đã bị những ông bà thực dân
miệt thị như là một thứ “mê tín dị đoan, thờ cúng Quỷ Thần” và dĩ nhiên là rất “lạc hậu” và cần phải đào thải.
Thế nhưng với thời gian, theo Luật Vô Thường, dòng đời đã biến đổi.
Giờ đây rất nhiều trí thức Âu Châu đã tôn sùng Đạo Phật. Liên Hiệp Quốc
cũng đã công nhận Lễ Vesak – kỷ niệm cùng lúc ngày Đản Sanh/Thành Đạo/
và Nhập Diệt của Đức Phật là ngày lễ quốc tế (Vesak Day). Ngày 15 tháng 7
năm 2009, Tribune de Geneve (Diễn Đàn Geneve) Hội Liên Minh Quốc Tế
Tiến Bộ Tôn Giáo Và Tâm Linh (ICARUS) tại Geneve đã ban tặng Cộng Đồng
Phật Giáo năm nay “Giải Thưởng Tôn Giáo Tốt Nhất Thế Giới”. Tại Hoa Kỳ,
nếu bạn đến Thành Phố Berkeley – California, bạn sẽ gặp rất nhiều các
giáo sư các nhà trí thức tiêu biểu cho trí thức Hoa Kỳ mà họ là đệ tử
của Đức Phật. Một số tài tử nổi tiếng của Holywood, ca sĩ nổi tiếng của
Hoa Kỳ, ngôi sao bóng tròn của như Baggio của Ý, Beckham của Anh v.v… họ
cũng đều là Phật Tử. Mới đây nhất nhà sư Thomas Dyer – một cựu truyền
giáo Baptist đã trở thành sĩ quan Tuyên Úy Phật Giáo lần đầu tiên trong
Quân Đội Hoa Kỳ và sẽ được cử sang Iraq để phục vụ nhu cầu tâm linh cho
binh lính Hoa Kỳ vốn là Phật tử tại đây. Dĩ nhiên các nhà trí thức này,
các siêu sao màn bạc, các ca sĩ nổi danh tiền kiếm bạc triệu và cả nhà
truyền giáo Baptist kia …họ không theo Đạo Phật vì cơm áo, mà họ đi tìm
sự giải thoát tâm linh hoặc một đời sống thoải mái hơn về tâm hồn mà họ
không tìm thấy nơi tôn giáo cũ mà họ đã theo. Nói Giải Thoát Tâm Linh
là nói chung chung, khái quát vậy thôi. Nội dung của nó còn bao hàm rất
nhiều những đức tính cao quý, những phẩm hạnh tốt đẹp, những tư tưởng
tốt lành, những hành vi nhân đạo, những suy nghĩ hiền hòa, chân thật,
những hành vi lợi lạc cho mình cho người, những an vui của tâm hồn mà
con người lúc nào cũng mong vươn tới, khắc khoải vươn tới từ mấy ngàn
năm nay. Chắc chắn khi theo Đạo Phật bạn sẽ có. Tất cả những tình cảm,
tư tưởng tốt lành đó sẽ hằng trụ trong bạn, sẽ đi theo thần thức của bạn khi bạn qua đời. Vĩnh viễn không thể nào mất được. Đó là các điều tốt lành dưới đây:
1) Tư tưởng của bạn được giải phóng:
Tư tưởng được giải phóng có nghĩa là bạn không bị trói buộc bởi bất cứ
tín điều, tư tưởng, quan điểm, chủ nghĩa và sự cấm kỵ nào. Không có một
tư tưởng nào là tư tưởng cấm kỵ trong Đạo Phật. Nếu vũ trụ rộng lớn như
thế nào thì tư tưởng của bạn bao la (vô biên xứ) như thế. Nếu chim và
mây trên trời có thể bay lượn tự do thì sự tự do tư tưởng của bạn cũng
như thế. Phật Giáo không buộc bạn phải tôn thờ bất cứ lời răn dậy nào.
Phật Giáo từ chối đầu óc cuồng tín và giáo điều cực đoan. Lời Phật dạy
giống như một viên thuốc, một bài thuốc, một phương thuốc hay. Nếu bạn
không uống thì uổng phí vì BỆNH không hết. Chỉ có thế. Nếu bạn không tin
Phật, bạn chẳng bị trừng phạt hay bị đày xuống hỏa ngục. Nhưng nếu bạn
làm điều xấu hoặc điều ác thì chính tâm hồn bạn đang bị vây hãm trong
Hỏa Ngục mà bạn không biết. Quan niệm Phá Chấp là quan niệm độc đáo của Đạo Phật. Ngay trong cuộc sống hằng ngày nếu bạn chịu khó “Phá Chấp” một chút thì cuộc đời bạn cũng thanh thản, bớt phiền não đi rất nhiều. Chấp trước, mê chấp, chấp thủ
là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi
khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp. Mà phá
chấp tức là phá mê. Phá mê (tức ra khỏi cơn mê) là sáng suốt. Mà sáng
suốt là giải thoát. Ý nghĩa giải thoát là như thế. Những ai đã từng ở tù
hẳn biết ngục tù khổ đau như thế nào. Thế nhưng ngục tù tư tưởng còn
khổ đau gấp bội. Theo tinh thần của Phật Giáo thì tẩy não, nhồi sọ, nhồi
nhét tư tưởng là nô lệ hóa con người và biến con người thành tù nhân để
sai khiến. Nếu muốn tìm hiểu tinh thần phá chấp bạn có thể tìm đọc hai
bộ kinh Kim Cang và Bát Nhã.
2) Bạn không còn phải sợ hãi thần linh nữa:
Như đã nói ở trên Đạo Phật là đạo của trí tuệ. Khi dùng trí tuệ soi rọi
thì vũ trụ này là do nhân duyên tạo thành. Thân xác của chúng ta đây
cũng là sự hòa hợp của Ngũ Uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
Những việc làm đang diễn ra hằng ngày là do chính chúng ta quyết định.
Khổ đau và hạnh phúc của chúng ta do chính ta hoặc tha nhân gây tạo chứ
Quỷ Thần không thể can dự vào được. Cái chết là luật tự nhiên không phải
do quỷ thần hoặc Nam Tào, Bắc Đẩu xóa sổ. Nếu bạn không đồng ý với
những gì nói ở trên và cho rằng tất cả những khổ đau và hạnh phúc này là
do Thần Linh gây tạo hoặc ban phát thì tại sao bạn tha thiết cầu nguyện
thần linh suốt cả cuộc đời mà khổ đau của bạn vẫn không hết? Cầu nguyện
tới bao giờ mới vừa lòng thần linh? Bao nhiêu thiên tai, bao tai nạn
khủng khiếp, bao cuộc chiến tranh tàn bạo do ai gây ra? Do con người hay
do một đấng thần linh nào đó vì phẫn nộ với loài người gây ra? Sự cầu
nguyện có làm bớt thiên tai, dịch họa, chiến tranh, khổ đau của con
người không? Phật Giáo phủ nhận sự hiện hữu của thần linh trong cuộc
sống của con người. Phật Giáo chủ trương chính Con Người phải giải quyết
những vấn đề như chiến tranh hay hòa bình, hạnh phúc hay khổ đau của
chính mình. Khi hiểu được như thế, khi đã liễu ngộ được
như thế bạn không còn phải sợ hãi thần linh, tôn thờ thần linh, van vái
và cầu xin ở thần linh nữa. Trong hầu hết các cuộc thuyết pháp, Đức
Phật đề cập rất nhiều đến Trời, Quỷ, Thần, Thiên Long Bát Bộ v.v..Tuy
nhiên, theo Kinh Phật thì Trời, Quỷ, Quỷ Thần, Thiên Long Bát Bộ không
liên hệ chi đến cuộc sống của con người. Họ không phải là thần linh tối
thượng quyết định vận mạng của con người. Trời, Quỷ, Thần, Thiên Long
Bát Bộ cũng quay đảo trong vòng luân hồi, cũng đầy rẫy phiền não, cũng
bị quy luật Sinh, Lão, Bệnh, Tử chi phối. Còn về Phạm Thiên (Brahma) là
vị mà người đời lúc bấy giờ coi như “bậc
Toàn Thắng, Toàn Tri, Nguời Cầm Quyền Đinh Đoạt, là Giáo Chủ, là người
Sáng Tạo, là Tạo Hóa, là Chúa Tể, là Cha của những chúng sanh đã, đang
và sẽ ra đời.” (*) Đức Phật đã giảng dạy như sau “Như
vậy, chính do ý muốn và sự tạo tác của đấng Tối Cao mà con người trở
thành sát nhân, trộm cắp, tà dâm, giả dối, phỉ báng, thô lỗ, nhảm nhí,
thèm thuồng, khao khát, hiểm độc, tinh quái, và hiểu biết sai lầm. Do đó
đối với người chủ trương thần linh là nguyên nhân chính yếu của tất cả
những điều ấy thì con người sẽ không còn ý muốn, hoặc cố gắng, cũng
không thấy sự cần thiết để làm, hoặc tránh không làm những hành động ấy.”
(*) Và trong Túc Sanh Truyện (Maha Bodhi Jataka), Đại Bồ Đề, Bố Tát phê
bình giáo lý chủ trương rằng mọi việc đều do đấng Tối Cao tạo nên như
sau: “Nếu có một thần linh
toàn quyền ban phước hay gieo họa cho tạo vật đã được chính ngài tạo
ra, và cho chúng nó những hành động tốt hay xấu, vị thần linh ấy quả
thật đầy tội lỗi. Con người chỉ thừa hành ý muốn của ngài.” (*)
3) Khi phát huy hết năng lực của Trí Tuệ, không còn bi lụy, khóc
than, cầu xin, van vái, qụy lụy ai, bạn là người Tự Lập và Độc Lập:
Khi đó bạn trở về với tự ngã, phát huy hết tiềm năng của nội tâm. Lúc
đó bạn sẽ thấy thấu suốt bản thể của Vũ Trụ, Sự Sống, Sự Chết, Hạnh Phúc
và Khổ Đau và lòng bạn lắng yên như bể cả. Khi tâm hồn của bạn đã lắng
yên tức đi vào trạng thái Định. Trạng thái này sẽ khiến bạn cảm thấy thơ
thới, hân hoan tức là cảnh giới an nghỉ tuyệt đối của tâm hồn gọi là Niết Bàn (Nirvana).
Tuy nhiên có hai loại niết bàn – đó là Hữu Dư Niết Bàn và Vô Dư Niết
Bàn. Chỉ có các chư Phật mới có thể chứng tới Vô Dư Niết Bàn. Còn như
chúng ta thì chỉ có thể chứng tới Hữu Dư Niết Bàn bởi vì còn có những
phiền não rất vi tế mà chúng ta chưa đoạn diệt hết.
4) Bạn bình đẳng với muôn loài. Thể tính của bạn là thể tính Phật, bạn có thể trở thành Phật.
Tôi có thể cam đoan với các bạn rằng không có một tôn giáo nào mà vị
giáo chủ lại nói rằng Thể Tính của vị giáo chủ ngang bằng với Thể Tính
của tín đồ và nếu chịu tu tập thì tín đồ cũng đạt được ngôi vị của giáo
chủ. Đây là tính độc đáo và hi hữu của Phật Giáo. Chính vì thế khi ứng
dụng quan niệm này vào xã hội thì trong một xã hội thuấn nhuần tinh thần
Phật Giáo sẽ không có giai cấp, không có nạn kỳ thị chủng tộc, không có
Phật tử giàu sang và Phật tử nghèo hèn. Cũng không có Phật tử thông
minh và Phật tử ngu độn. Từ vua quan đến thứ dân, tiện dân, Phật đều đối
xử như nhau. Tất cả đều bình đẳng trước mắt Phật. Khi bạn lễ Phật là lễ
lạy, cung kính cái Phật Tánh trong con người mình, là bạn cung kính tất
cả những phẩm hạnh cao quý vốn có trong con người bạn nếu được phát
huy. Nó không phải là sự quỳ lạy thần linh bình thường như nhiều người
không biết hoặc hiểu lầm. Khi chúng ta gặp nhau, chúng ta chắp tay xá và
miệng nói “A Di Đà Phật” là chúng ta kính
trọng những đức tính tốt lành trong con người của nhau, chúng ta cầu
chúc cho nhau được sống ở Đất Thanh Tịnh, Quốc Độ Thanh Tịnh (Tịnh Độ)
của Phật A Di Đà.
5) Bạn sẽ là quán quân trong việc bảo vệ môi trường, bảo vệ thú vật do lòng Từ Bi:
Tôi có thể thưa với bạn rằng không có kinh điển của một tôn giáo nào
trên thế giới lại nói nhiều về loài vật như kinh Phật. Thảng hoặc nếu có
đề cập tới thì chỉ coi loài vật như một thứ do Thần Linh tạo ra để làm
thực phẩm cho loài người trong các bữa ăn và cúng tế Thần Linh. Nhưng
Đức Phật thì không thế. Ngay trong thời kỳ còn ở trong cung vàng điện
ngọc, Thái Tử Sĩ Đạt Ta đã có lòng từ tâm đối với những loài thú vật
đáng thương. Truyện kể rằng Hoàng Tử Đề Bà Đạt Đa đưa cây cung lên bắn
một con chim. Con chim không chết mà chỉ bị thương và sa xuống sân của
thái tử. Thái Tử Sĩ Đạt Ta đã chạy ra, ôm con chim vào lòng và chữa vết
thương cho nó. Lúc đó vị hoàng tử chạy tới và đòi lại con chim nhưng
Thái Tử Sĩ Đạt Ta nhất quyết không trả lại. Hai bên tranh luận và sự
việc tới tai Đức Vua Tịnh Phạn. Hoàng Tử Đề Bà Đạt Đa nói rằng con chim
do hoàng tử bắn cho nên nó phải thuộc về hoàng tử. Còn thái tử thì cho
rằng vị hoàng tử khi giương cây cung bắn con chim là muốn một con chim
chết. Nay con chim vẫn còn sống và thái tử lại bảo vệ mạng sống cho nó
cho nên con chim phải thuộc về thái tử. Đức vua nghe nói động lòng từ
tâm và phán quyết là con chim thuộc về Thái Tử Sĩ Đạt Ta. Trong suốt
cuộc đời hành đạo, Đức Phật thường dùng những truyện kể về đời sống của
những loại thú vật để làm chuyện ngụ ngôn giảng dạy đạo đức và tình
thương. Nếu quý vị và nhất là các em nhỏ muốn biết những chuyện hấp dẫn
và đầy ý nghĩa đạo đức này có thể đọc cuốn Prince Goodspeaker (Hoàng Tử
Thiện Ngôn) do Todd Anderson sưu tầm và dịch ra Anh Ngữ xuất bản bởi
Amitabha Buddhist Society of NY Inc. năm 1995. Chính vì lòng xót thương
loài vật như thế mà Đức Phật chủ trương ăn chay, không ngoài mục đích đề
cao “đức hiếu sinh”. Cấm sát hại sinh linh là một trong những
giới luật hàng đầu của Đạo Phật. Tuy nhiên một số vị sa môn đã ăn mặn,
nguyên do là vì xưa kia trong khi đi khất thực, thí chủ cho đồ mặn. Để
tôn trọng thí chủ, các vị đã theo nguyên tắc “cho gì ăn nấy”.
Tuy nhiên việc ăn mặn này không làm tổn hại đến phẩm chất đạo đức bởi vì
các vị không bao giờ nhúng tay vào việc nuôi súc vật cũng như giết súc
vật để làm thực phẩm. Ngày nay vấn đề Ăn Chay
để bảo vệ súc vật đã trở thành một trào lưu lan rộng khắp thế giới. Có
thể những vị này không phải là Phật tử, nhưng khi hành động như thế, các
vị đã đi đúng con đường mà Đức Phật giảng dạy cách đây hơn 2500 năm.
Mới đây Brigitte Bardot – cô đào hở hang lừng danh Pháp của
thập niên 1950 cũng đã kêu gọi tổng thống Pháp công nhận một Ngày Ăn
Chay để bảo vệ súc vật. Bà Brigitte Bardot còn công kích cô đào văm Sophia
Loren là đã mặc áo lông thú tức là cổ vũ cho sự giết hại loài vật để
làm trang phục cho phụ nữ. Còn vấn đề môi trường. Trước hết Đức Phật
sinh ra dưới cây Vô Ưu của Vườn Lâm Tỳ Ni. Khi đắc đạo, ngài ngồi dưới
cội bồ đề. Trong suốt thời gian 45 năm hành đạo, Đức Phật thuờng thuyết
pháp tại những khu rừng, vườn, như Lộc Uyển (Vườn Nai), Trúc Lâm (Vườn
Trúc), Kỳ Viên, Núi Linh Thứu v.v.. Nơi nhập diệt của ngài là rừng Sa La
Song Thụ. Trong những bài thuyết pháp Đức Phật đề cập rất nhiều đến
chim muông, cây cỏ, hoa trái, tán dương núi rừng là nơi ẩn tu lý tưởng
cho các vị A La Hán cho nên có thể nói cả cuộc đời của ngài gần gũi với
thiên nhiên. Trong đời sống của chính mình và của chư tăng, ngài chủ
trương tiết kiệm và quý trọng vật cho của thí chủ. Do đó nếu theo Phật,
lòng Từ Bi của các bạn sẽ dễ dàng được thể hiện qua lòng yêu mến thú vật
và môi trường thiên nhiên và đây đang là một trong những giá trị của
thời đại.
6) Giàu có bạn cũng sung sướng. Nghèo túng bạn vẫn vui. Nghĩa là bạn sẽ vui vẻ trong mọi hoàn cảnh:
Thưa bạn: Một trong những nguyên nhân làm khổ còn người là lòng Tham:
Tham của, tham tiền, tham sắc, tham quyền, tham danh vọng. Vì có lòng
Tham cho nên không khi nào thấy đủ, không thỏa mãn với những gì mình
đang có. Một ông triệu phú mà có lòng tham thì thấy bạc triệu vẫn chưa
đủ và phải kiếm nhiều hơn nữa. Mà khi tham như thế thì đầu óc không còn
sáng suốt, dễ dàng làm điều phi pháp, phi đạo đức để đưa đến tù tội. Có
thể nói một phần không nhỏ những người đang phải chịu cảnh tù đày ngày
hôm nay, nguyên do chính là vì lòng tham. Cuộc khủng hoảng tài chính
cuối năm 2008 tại Hoa Kỳ không phải do người Mỹ quản trị kém mà một
trong nguyên nhân chính là lòng Tham. Vì tham cho nên các công ty tài
chánh, công ty đầu tư, các công ty bán cổ phần đã tìm cách lường đảo
khách hàng khiến cho tổng thống Hoa Kỳ khi ban bố biện pháp cứu nguy đã
phải thốt lên “Shame of you!” (Thật xấu hổ cho các ông). Lòng
tham còn đưa tới nhiều đau khổ, tội lỗi khác và còn kéo dài kiếp này
sang kiếp khác. Chính vì nhìn thấu rõ Tập Đế (Nguyên Do Của Khổ Đau) của
con người là Tham-Sân-Si cho nên Đức Phật đã giáo huấn đệ tử là phải nỗ
lực diệt trừ nguồn Tam Độc này. Tuy nhiên tới đây bạn có thể hỏi:
Tham-Sân-Si vốn gắn chặt với bản chất của con người. Chính vì có
Tham-Sân-Si mà con người mới tiến bộ như thế này. Diệt trừ Tham-Sân-Si
có nghĩa là con người trở nên ù lì, không làm gì cả sao? Thưa bạn, xin
bạn đừng lo, chỉ có chư Phật, Bồ Tát, A La Hán, Thánh Tăng mới có thể
đoạn trừ hết Tham-Sân-Si. Còn bình thường như bạn và tôi thì kiềm chế
được Tham-Sân-Si đã là giỏi lắm rồi. Trong suốt thời gian 45 hành đạo,
Đức Phật đã hóa độ cho tất cả mọi thành phần xã hội, từ vua, quan, quan
đại thần, binh sĩ, trí thức, thương buôn giàu có, tiện dân và kể cả
những băng đảng giết người. Tà ma ngoại đạo đến quy phục ngài không
thiếu. Đức Phật không bao giờ khuyên họ cứ ù lì, chấp nhận thân phận
hiện tại. Dĩ nhiên chúng ta không thể chuyển nghiệp tức là chuyển hóa thân phận
của mình bằng con đường phi đạo đức. Đức Phật cũng thế, ngài dạy chúng
ta phải chuyển nghiệp bằng con đường tốt lành chẳng hạn phải thực hành Bát Chánh Đạo hoặc Thập Thiện,
chứ có bao giờ Đức Phật bảo một người ăn mày cứ tiếp tục chấp nhận thân
phận của một kẻ ăn mày đâu? Thưa bạn trong lúc bạn thất vọng não nề,
chán nản cùng cực hoặc căng thẳng đầu óc để toan tính một việc làm nguy
hiểm gì đó khiến bạn muốn điên lên. Nếu bạn chợt dừng lại và truy cứu
xem nguyên do của những cái nói trên (Phật Giáo gọi là Khổ Đau & Phiền Não)
có phải là Tham-Sân-Si không? Nếu bạn quán xét được như thế thì tự
nhiên đầu óc bạn bớt căng thẳng, lòng bạn trùng xuống, hơi thở bạn trở
nên điều hòa. Bạn như người đang nóng bức, khát nước được uống một ly
nước dừa tươi mát mà Phật Giáo gọi là Cam Lồ Giải Thoát tức là (nước uống ngọt ngào làm tiêu đi mọi phiền não). Lúc đó bạn có cảm tưởng vừa ra khỏi cơn ác mộng từ đó lòng bạn thơ thới hân hoan, đầy đủ sáng suốt, thanh thản để giải quyết chuyện đời trong điều kiện tốt lành, cho chính bạn, gia đình bạn và cho người. Bạn cứ thử xem sao.
7) Bạn không xâm hại ai,
chiếm đoạt của ai, sống an vui với tất cả mọi người. Bạn là quán quân
góp phần vào việc giữ gìn hòa bình thế giới: Thưa bạn: Đạo Phật
không phải là đạo chú tâm vào cầu nguyện, van vái. Tụng kinh, niệm Phật,
ăn chay là một trong những phương tiện/trợ duyên để giúp người ta làm
lành, lánh dữ, tu sửa tính tình, khiến tâm địa bình ổn, gieo trồng căn
lành rồi từ từ chuyển hóa tâm thức. Hằng hà sa
số chư vị bồ tát, thánh tăng, thiền sư với trí tuệ dũng mãnh thông qua
Thiền Định cũng đã chuyển hóa tâm thức nhanh chóng và chứng quả vị mà
không cần tụng kinh niệm Phật. Tuy nhiên dù là cư sĩ, tu sĩ, thánh tăng,
bồ tát, a la hán muốn chứng đựơc quả vị nói trên tức muốn giải thoát
cũng phải thực hành Bát Chánh Đạo, Thập Thiện và Lục Hòa. Bát Chánh Đạo (Eightfold Path) gồm có: Right View (Chánh Kiến), Right Thought (Chánh Tư Duy), Right Speech (Chánh Ngữ), Right Action (Chánh Nghiệp), Right Livehood (Chánh Mệnh), Right Effort (Chánh Tinh Tấn), Right Mindfullness (Chánh Niệm) và Right Contemplation (Chánh Định). Rồi Thập Thiện thì gồm có: Không
Sát Sinh, Không Trộm Cắp, Không Nói Dối, Không Nói Lời Thêu Dệt, Không
Nói Lời Hai Chiều (đâm thọc, lúc rày lúc khác), Không Nói Lời Hung Ác,
Không Tham Muốn, Không Nóng Giận và Không Si Mê. Còn Lục Hòa thì gồm có: Thân Hòa Đồng Trú, Khẩu Hòa Vô Tranh, Ý Hòa Đồng Duyệt, Giới Hòa Đồng Tu, Kiến Hòa Đồng Giải và Lợi Hòa Đồng Quân. Thưa bạn trong cuộc sống rất phiền phức và căng thẳng ngày hôm nay, chỉ cần chúng ta ứng dụng ba chỉ dẫn Chánh Kiến, Chánh Ngữ và Kiến Hòa Đồng Giải
không thôi – thì xã hội sẽ bớt đi rất nhiều những lời lăng nhục, chửi
bới, bóp méo, chụp mũ đang diễn ra hằng ngày và thế giới sẽ trở thành
một diễn đàn hòa bình để cùng nhau thảo luận
trong tương kính những vấn đề bức thiết của con người. Nếu bạn có giải
pháp nào tốt lành hơn, xin bạn cứ nói ra.
8) Bạn không thấy cuộc đời này là nhàm chán, vô vị. Chắc chắn bạn yêu mến cuộc sống, nhưng cũng không sợ Chết: Thưa bạn: Buồn chán
(boring/depressed) là một trong những căn bệnh tệ hại của kiếp người.
Không phải chỉ những người nghèo khổ mới buồn chán mà cả hàng quí tộc,
vương tôn công tử, vua quan, trí thức, văn nghệ sĩ, tỉ phú cũng buồn
chán. Kể cả lứa tuổi hoa niên cũng buồn chán và đưa tới việc tự sát. Bản
nhạc Bonjour Tristesse (Buồn Ơi Chào Mi)
chứng tỏ điều này. Thật lạ lùng khi thấy tài tử ci-nê, ca sĩ nhạc Pop
nổi danh khắp hoàn vũ, hình ảnh được hằng triệu người mua, thêu trên áo
và tôn thờ như thần tượng, những celebrities này sống sung
sướng trong những dinh thự tráng lệ, kẻ hầu người hạ, người tình (boy
friend/girl friend) không thiếu, thế mà họ cũng buồn chán. Cái chết của
cô đào Marilyn Monroe và ca sĩ Michael Jackson mới đây cho thấy những vị
này đã chết là vì buồn chán, vì thấy cuộc đời vô vị. Nhưng cũng thật lạ
lùng là những vị sư, ni cô, thiền sư, đời sống đạm bạc, ẩn dật trong
những ngôi chùa, tu viện thì họ chẳng bao giờ phải uống thuốc ngủ, hoặc
tự tử vì buồn chán cả. Tạo sao thế? Bởi vì những vị này, qua lời giáo
huấn của Đức Phật và do chứng ngộ bản thân, họ đã thấy tiện nghi, vật
chất, của cải không phải là cứu cánh của hạnh phúc. Hơn thế nữa họ biết cách sống : Sống Trong Tỉnh Thức. Sống trong tỉnh thức là sống mà biết quý trọng sự sống, biết mình đang sống.
Xin bạn hãy thử mở hết các giác quan ra, hãy lắng đọng tâm tư, hãy để
cho lòng mình trùng xuống, thật nhẹ nhàng, thật êm dịu, bạn sẽ thấy:
- Tiếng gió vi vu là lúc ta chẳng phiền chẳng não.
- Trời rộng bao la là trí tuệ ta siêu việt.
- Đất dày là nghị lực và ý chí của ta chẳng thể hao mòn.
- Tiếng suối reo là tiếng lòng ta đó.
- Đại dương xanh thẳm là tấm lòng ta trải rộng với lòng quảng đại nhân từ.
- Đám mây lững lờ bay là những giấc mộng trong đời của ta chợt thành, chợt biến không ngừng.
- Chú thỏ non ngơ ngác chạy tung tăng trên thảm cỏ là những ngày thơ ấu của ta.
- Cánh chim bay lượn trên vòm trời xanh là khát vọng tự do của ta đó.
- Bão tố là lúc lòng ta sân hận.
- Tiếng sóng vỗ bờ rì rào của biển là lời ta nỉ non tâm sự với đời.
- Đàn ngựa nhởn nhơ trên cánh đồng là tinh thần ta bất khuất.
- Cả tiếng rống của loài sư tử cũng là lòng kiêu hãnh của ta ngang bằng trời đất. Ta sống ung dung tự tại và không bao giờ biết sợ sệt.
Bạn ơi, khi bước vào Đạo Phật, khi thực hành thiền quán bạn sẽ cảm nghiệm và tận hưởng được những điều thi vị nói trên. Bởi vì khi đó, bên cạnh cuộc sống vật chất này bạn còn có tâm hồn của thiền sư.
Chính vì thế mà các Meditation Center đã mọc lên khắp nơi trên thế
giới. Bạn hãy thử thực hành như thế một thời gian xem sao. Rồi 100 năm
qua đi rất nhanh, rồi bạn sẽ từ giã cõi đời, từ giã cõi Diêm Phù Đề này.
Nhưng xin bạn đừng thắc mắc nhiều. Bạn hãy theo lời chỉ dẫn của Đức Đạt
Lai Lạt Ma: Sống Hạnh Phúc, Chết Bình An (The
Joy of Living and Dying in Peace). Vì trí tuệ của bạn đã mở bung ra
khắp vũ trụ này, vì thần thức của bạn đã tự do, vì tâm hồn của bạn đã
thể nhập vào thiên nhiên, cho nên bạn muốn vào Cung Trời nào, muốn đầu
thai vào đâu, hoặc muốn trở lại đây thêm một kiếp nữa là tùy ý. Bạn khỏi
phải bận tâm về cái chết.
9) Bạn là người cao thượng trong tinh thần biết giúp đỡ và an ủi
người khác: Trong suốt thời gian 45 năm hành đạo, Đức Phật không nói gì
hơn là giáo huấn đệ tử và chúng sinh xây dựng Tâm Lành, Trí Tuệ Sáng Suốt và thực hiện Hạnh Bố Thí
giúp đời. Ngài luôn luôn cất lời ca ngợi tất cả mọi người – từ phàm
phu, kẻ nghèo khó, đến ông trưởng giả, đến các bậc đế vương, những vị ở
khắp cõi Trời, Thiên Long Bát Bộ đã có công trong việc độ sinh. Có những
vị do lời Đức Phật kể lại mà đã sống bất tử với thời gian như ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát và Mục Kiền Liên Bồ Tát. Ngài
Quán Tự Tại đã phát lời nguyện giúp chúng sinh vượt qua nỗi sợ hãi (Vô
Úy). Nếu có chúng sinh nào đang lâm vào vòng nguy biến, binh đao, nước
lửa, ngục hình, tra tấn, khủng bố v.v..nếu thành tâm niệm danh hiệu
ngài, thì ngài sẽ thị hiện qua hình ảnh của Phật Bà Quan Âm mà cứu độ. Còn ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát đã phát lời nguyện thật ghê gớm: Địa Ngục Giai Không
tức là là nếu thế giới này mà còn một người ở tù thì ngài không thành
Phật. Vậy những ai đang mắc vòng lao lý hãy thành tâm niệm “Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát”,
chắc chắn sẽ ứng nghiệm. Còn ngài Mục Kiền Liên Bồ Tát thì nhờ tâm chí
thành cứu giúp mẹ đang bị khổ sở trong thế giới của loài quỷ đói (Ngạ
Quỷ) mà được thế gian xưng tụng như biểu tượng của lòng hiếu thảo.
Nếu bạn vốn sẵn lòng từ tâm, lòng hy sinh cứu đời, hạnh nguyện san sẻ
tình thương với người khác, xin bạn thử bước vào Đạo Phật. Chắc chắn bạn
sẽ được thỏa mãn.
Tạm Kết Luận:
Dĩ nhiên những gì tôi chia xẻ với bạn ở đây còn rất thiếu sót, thô
sơ. Sau khi đã đọc xong tất cả những gì nói ở trên, dù bạn có thể đã
đồng ý một phần nhưng bạn có thể còn hỏi “Tôi
theo Đạo Phật, tôi theo Phật thì tôi có cơm ăn áo mặc, có thể trúng số,
có thể thăng quan tiến chức, nghèo có thể trở thành giàu không?”
Xin thưa: Bạn không phải là một đứa trẻ đang khóc (ẩn dụ cho khổ đau)
cần phải cần cho kẹo (dụ dỗ) mới nín (tức mới hết khổ đau). Bạn đang
đói, dù bạn theo Phật, nhưng chắc chắn bát cơm không hiện ra trước mắt
bạn. Nhưng vì theo Phật bạn sẽ làm lành, gieo nhân lành như thế chắc
chắn bạn sẽ gặt hái được Quả Lành tức là những
điều tốt đẹp trong tương lai – kiếp này hay kiếp sau. Điều này đúng
chắng sai. Cuối cùng điều bạn cần nhớ là Đạo Phật không phải là đạo đổi
chác, không phải là đạo ban bố phép mầu, không phải là đạo hứa hẹn. Sự
giải thoát, nguồn hạnh phúc do Đạo Phật – thực ra do chính bạn đem lại - có thể thực chứng ngay kiếp này, ngay bây giờ (here now), không phải đợi chết đi mới có. Nó là đạo của Trí Tuệ, Từ Bi và Lòng Dũng Cảm. Đó là ba trụ cột giúp cho chúng ta thoát khỏi thân phận nghiệt ngã, cay đắng của kiếp người rồi vươn lên sống ung dung tự tại, và có ý nghĩa. Nếu
bạn không tin vào Lòng Từ Bi, Lòng Dũng Cảm mà mình vốn có, không tin
vào Trí Tuệ sáng suốt của mình mà chỉ muốn cầu xin, van vái thần linh để
đạt hạnh phúc trong cõi đời này, bạn có thể đi tìm một tôn giáo khác.
(California Tháng 11, 2009)
Cước chú: Dấu (*) là lời trích dẫn từ Đức Phật và Phật Pháp
của Đại Sư Narada Maha Thera (Tích Lan) do Phạm Kim Khánh dịch ra Việt
Ngữ, xuất bản ở Hoa Kỳ năm 2545 (Phật Lịch) tức năm 2001 (TâyLịch)
(Nguồn: http://daovanbinh.cattien.us/?p=161)