Chùa Bửu Minh Gia Lai - Mobile
PGVN chưa nhận thức đầy đủ về hiểm họa cải đạo?
Minh Thạnh
18/11/2010 12:27 (GMT+7)


Như đã trình bày qua bài viết Kinh nghiệm đối phó hiểm họa cải đạo ở Liên Bang Nga, với cú hích “dị giáo hóa” truyền hình Nga, toàn xã hội Nga, từ người dân đến đại biểu Duma quốc gia, tổng thống, từ báo chí đến cơ quan chấp pháp đều bừng tỉnh và tích cực đối phó với hiểm họa cải đạo, bảo vệ các tôn giáo bản địa (Chính thống giáo, Hồi giáo, Phật giáo, Do Thái giáo) bằng mọi biện pháp, từ vận dụng Hiến pháp, xây dựng các đạo luật mới, tới những cuộc đi thăm thường xuyên của tổng thống đến thánh đường Chính thống giáo, Hồi giáo, chùa chiền Phật giáo, áp dụng chặt chẽ các đạo luật để bảo vệ tôn giáo bản địa.

Những việc này không phải là vi phạm tự do tôn giáo, mà hoàn toàn đúng với luật pháp Liên Bang Nga. Trong khi đó, nội dung Hiến pháp và các đạo luật về tôn giáo của Liên Bang Nga được xây dựng trên quan điểm bảo vệ các giá trị truyền thống của Liên bang, trong đó, các tôn giáo truyền thống là một trong những giá trị quan trọng.

Trong khi ở  Liên Bang Nga, việc đối phó với hiểm họa cải  đạo là nhận thức và hành động của toàn xã hội, trong đó, tu sĩ và tín đồ của các tôn giáo được nhà nước bảo vệ đóng vai trò tích cực, thì trong khi đó tình hình tại Việt Nam hoàn toàn khác.

Xã hội, chính quyền, người dân, các tôn giáo bản địa…  hầu như không hề có nhận thức đầy đủ và hành động cụ thể đối phó với hiểm họa cải đạo thường trực và nặng nề.

Trước tiên, là vì tại Việt Nam, các thế lực cải đạo không tiến hành hoạt động cải đạo lộ liễu, ầm ĩ, gây sốc cho công chúng, trường hợp chiếm lĩnh truyền hình như ở Nga, mà hoạt động âm thầm, lặng lẽ, sử dụng biện pháp truyền thông, gọi là thuyền thông liên cá nhân (interpersonal communication), thay vì truyền thông đại chúng (mass communication), như trường hợp ở Liên Bang Nga.

Có thể  có nhiều nguyên nhân:

- Tại Việt Nam, các lực lượng cải đạo không thể sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng một cách hữu hiệu, chẳng hạn như không được phép sử dụng kênh truyền hình nội địa hàng đầu, mà chỉ có thể sử dụng đài phát thanh sóng ngắn từ nước ngoài phát vào, rất ít thính giả.

- Lực lượng tiến hành cải đạo trong nước người bản địa, thông thạo tiếng Việt đã có sẵn, nên sử dụng truyền thông cá nhân thuận lợi hơn là dùng truyền thông đại chúng.

- Có thể, phản ứng có tác dụng ngược của việc ồ ạt sử dụng phương tiện truyền thông đại chúng ở Liên Bang Nga đã là một kinh nghiệm. Các thế lực cải đạo tại Việt Nam không muốn tạo thành một cú sốc phản tác dụng như vậy nữa.

- Hoạt động cải đạo bằng truyền thông liên cá nhân tại Việt Nam (dạng như tác giả bài Mối lo hiểm họa cải đạo thường trực và các ý kiến đóng góp đã miêu tả), đã có hiệu quả, ít tốn kém, nên  được ưu tiên sử dụng là lẽ đương nhiên.

- Phía thế lực cải đạo có châm ngôn: “vết dầu loang”, “làm cho con bò chảy máu”. Cải đạo trong thầm lặng đối với tôn giáo bản địa giống như là chích máu một con bò vậy. Mất máu đến lúc nào đó “con bò” sẽ quị xuống, sau đó, sau đó, “con bò” sẽ hấp hối, và cuối cùng “con bò” chết, mà dường như trên thân thể nó không có một tổn thương nào để có thể dễ dàng nhận thấy.

Trong phương thức nói trên, tôn giáo bản địa bị cải  đạo sẽ không nhận biết gì hết, hoặc nhận thức không đầy đủ, dẫn đến việc “trúng kế”, chủ quan, không đối phó, dẫn đến hậu quả chết dần chết mòn, hết sức có lợi cho các thế lực cải đạo.

Trong bối cảnh hoạt động cải đạo tại Việt Nam, có  lẽ, sự việc đã rơi vào tình trạng trên.

Ngoài một số trang web mà hầu hết bạn đọc Phật tử đều biết rõ, một số lớn tờ báo giấy và trang web Phật giáo đều im lặng trước hiểm họa cải đạo tín đồ Phật giáo, chừng như là không có việc gì xảy ra cả.

Có  trang web, trước đây còn đăng một số ý kiến cảnh báo về hiểm họa cải đạo tín đồ Phật giáo nhưng sau đó đột ngột im bặt trước đề tài này.

Nếu như  ngay cả các cơ quan truyền thông Phật giáo, những bộ phận nhạy cảm nhất của một tôn giáo, lại không cảm nhận đầy đủ về hiểm họa cải đạo thường trực, thì làm sao đại đa số  tăng ni Phật tử nhận thức được đầy đủ hiểm họa đang làm chảy máu tín đồ Phật giáo một cách lặng lẽ.

Nếu chính tôn giáo bản địa còn không nhận thức đầy đủ hiểm họa cải đạo tín đồ của chính mình, thì  làm sao công luận xã hội, báo chí, nghị viện, quan chức chính quyền quan tâm đến việc bảo vệ  tôn giáo truyền thống bản địa như Liên Bang Nga đã làm.

Đề xuất của chúng tôi, trước hết, là hướng về các cơ sở truyền thông Phật giáo, từ trang mạng đến các tờ báo giấy, tạp chí, xuất bản phẩm định kỳ.

Báo chí  Phật giáo cần có mục “Hộ pháp”. Không nói đến bất kỳ một tôn giáo cụ thể nào hết nhưng những việc có liên quan đến tác động cải đạo tín đồ Phật giáo thì cần nói cụ thể, rõ ràng, kể cả biện pháp đối phó.

Câu chuyện những đứa con cải đạo nói với người cha, người mẹ hấp hối, theo lời một bạn đọc kể lại, báo trước việc sẽ không thờ cúng sau khi cha mẹ qua đời, có thể là một câu chuyện bi kịch gia đình do việc cải đạo đưa lại.

Thực tế đã có nhiều trường hợp tương tự như vậy. Ở đám tang cha, người trong gia đình đã lập bàn thờ Phật, nhưng con cái đã cải đạo không chịu dự lễ cầu siêu mà hằn học đứng ngó. Con cái cải đạo còn đến đập phá những biểu tượng Phật giáo trên mồ mả ông bà cha mẹ, vì cho rằng đó là những biểu tượng ma quỷ, dị đoan.

Những chuyện như vậy bây giờ đem ra kể không hết…

Vì  lòng từ bi, Phật tử chúng ta quan tâm đến việc hộ pháp, tích cực đối phó với hiểm họa cải đạo, bảo vệ tín ngưỡng bản địa, chính là bảo vệ sự hòa thuận an lạc trong mỗi gia đình Phật tử Việt Nam. Những tín đồ cải đạo có cư xử rất khác với người Phật tử, họ sẵn sàng gây ra các bi kịch tàn nhẫn vì quyền lợi các tôn giáo ngoại lai, để chiếc vé đi Thiên đàng thêm giá trị.

Cuối bài viết, tác giả xin có lời cảm ơn tác giả Nguyễn Bá Duy. Đạo hữu đã giúp tôi cảm thấy mình không cô độc trong định hướng hộ pháp của mình và thêm tinh thần để tiếp tục loạt bài về việc cải đạo tín đồ Phật giáo, tu hạnh hộ pháp, đối phó với hiểm họa lớn của Phật giáo Việt Nam hiện nay.

MT

Các tin đã đăng:
Về đầu trang