I. Ý NGHĨA
Hiểu theo sự tướng, Đạo Phật là con đường, là phương pháp tu hành đưa con người đến mục đích giác ngộ và giải thoát. Giác ngộ đối nghĩa với vô minh, giải thoát đối nghĩa với trói buộc.
Chúng sanh vô minh, chấp thân tâm là thật, chấp các pháp là thật nên
dính mắc với trần cảnh; từ đó bị phiền não trói buộc, tạo nghiệp và
quanh quẩn trong sáu đường sinh tử. Người tu khi giác ngộ thân tâm cảnh
đều duyên hợp hư huyễn, các Ngài vẫn sống vẫn làm nhiều việc lợi ích cho
đời, nhưng hoàn toàn tự do tự tại. Như thế, nhờ giác ngộ nên giải thoát - giải thoát khỏi phiền não và cuối cùng, khỏi luân hồi. Đạo Phật được ví như ngọn đuốc soi đường cho những kẻ còn lạc lối trong rừng rậm vô minh, hoặc như chiếc thuyền đưa người quabiển khổ, đến bến bờ an lạc.
Hiểu theo lý tánh, Đạo Phật là tánh giác sẵn đủ ở mỗi chúng sanh. Tánh giác là thể chẳng sanh chẳng diệt ở ngay thân ngũ uẩn sanh diệt. Chư Phật đã nhận ra và hằng sống với tánh giác chân thường, chúng sanh cũng có tánh giác nhưng bị phiền não tham sân si che lấp, như vàng trong quặng, như sóng chìm nổi trên mặt biển. Thể tĩnh lặng của biển luôn hiện hữu trong tướng biến động của sóng. Do có gió nên mặt biển nổi sóng, và khi gió lặng, sóng lại trở về với biển cả mênh mông. Cũng vậy, chúng sanh đang trong thể tánh tịch chiếu của biển chân như, do gió nghiệp thổi mà sinh ra thân năm uẩn, theo đó tiếp tục tạo nghiệp rồi thọ thân mãi mãi không cùng. Hơn thế, chúng sanh lại quên thể tánh hằng tri mà nhận lầm tâm huyễn hóa là mình, như người nhận sóng mà quên nước. Muốn trở về nước, phải ngay nơi sóng mà nhận; muốn trở về tánh giác chân thường, phải ngay từ thân tâm vô thường. Tâm thức mê mờ của phàm phu rất gần với tâm Bồ-đề của các Bậc Giác Ngộ, chỉ cách nhau ở một niệm quên hay nhớ mà thôi.
Chúng sanh quên tánh giác vì mãi chạy theo thức tình phân biệt, theo vọng tưởng điên đảo.
Ví như mặt hồ có sóng lớn, ánh trăng không hiện rõ trong nước; nhưng
khi gió lặng, mặt nước yên tĩnh, bóng trăng sẽ hiện sáng ngời. Chúng ta tu là làm lặng yên gió niệm phân biệt. Niệm Phật đến nhất tâm bất loạn, thiền tập đến trạng thái tịch lặng và thường rõ biết, người tu nhận ra Niết bàn tự tánh ở ngay đương xứ - bây giờ và ở đây.
Như ta thấy, Đạo Phật không hề có những biểu hiện thần quyền hoặc chủ trương những hình thức mê tín dị đoan. Đức Phật là Bậc Đạo Sư tức vị Thầy dẫn đường,
không phải là thần linh ban phước giáng họa. Chúng sanh có quyền chọn
lựa đường hướng cho mình, hoặc đi theo Đức Phật thì sẽ được an lạc giải thoát
như Ngài, hoặc quay lưng theo hướng khác thì cũng có quyền tạo nghiệp
và tự thọ nhận quả báo tương ứng. Chính Đạo Phật đã trao cho tất cả
chúng sanh quyền tự do và quyền bình đẳng tuyệt đối khi vị Giáo chủ
nhiều lần tuyên bố: “Chúng sanh là chủ nhân của nghiệp, cũng là chủ thọ nhận nghiệp báo” và “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”.
II. LÝ THUYẾT
Giáo lý nhà Phật gồm tam tạng kinh điển (Kinh-Luật-Luận), là cả một gia tài đồ sộ. Kinh là những lời dạy của Đức Phật thuyết giảng hoặc do các đệ tử của Ngài tuyên thuyết và được Ngài ấn chứng. Luật
là những cấm giới do Đức Phật chế ra để ngăn dứt điều ác, phát triển
nghiệp lành. Thời kỳ Đức Phật còn tại thế chưa có chữ viết chỉ truyền
khẩu, nên dần dần không thể không có những điều sai lạc. Đến nay một số
giáo điều do người sau đặt ra nhưng lại ngụy tạo lời Phật dạy; hoặc
ngược lại, có người chủ trương sai lầm cho rằng kinh điển Đại thừa không
phải do Đức Phật thuyết giảng. Điều này làm nhiều Phật tử hoang mang
không biết tin vào đâu, thậm chí rơi vào tà kiến mê tín. Vì thế, nhà
Phật có một thước đo để phân định pháp nào là đúng chánh pháp. Thước đo
ấy gọi là Pháp ấn.
“Ấn” nghĩa đen là con dấu, dùng chứng thực uy quyền của vua quan. “Pháp ấn” là
con dấu của Đức Phật, dùng để chứng thực đâu là giáo lý từ kim khẩu Đức
Phật thuyết ra. Với trí tuệ vô sư xuất thế, Đức Phật đã khám phá ra
chân lý tuyệt đối chi phối cả vũ trụ vạn hữu cùng những phương pháp đoạn
tận phiền não, thoát ly sinh tử. Trong suốt cuộc đời hoằng hóa độ sanh,
Ngài đều chỉ dạy cho đệ tử theo tinh thần này. Và do vậy, nếu có một lý
thuyết nào không mang được ý nghĩa như thế, thì đó không phải là lời
dạy của Đức Phật.
Pháp ấn gồm ba phân loại:
- Tứ pháp ấn.
- Tam pháp ấn.
- Nhất pháp ấn.
* Tứ pháp ấn
1. Vô thường: Tất
cả mọi loài vật, từ hữu tình đến vô tình, từ lớn lao như toàn thể vũ
trụ đến tí hon như những tế bào đều thay đổi trong từng sát-na. Con
người vô thường theo tiến trình sinh lão bệnh tử, các pháp có sinh trụ
dị diệt, vũ trụ có thành trụ hoại không.
2. Khổ: Vì
vô thường nên không một chúng sinh nào thoát khỏi đau khổ, trong đó nỗi
khổ luân hồi là đệ nhất. Cụ thể hơn, Đức Phật dạy rõ về tám loại khổ:
Sanh - Già - Bệnh - Chết - Cầu mong không toại nguyện - Thương yêu phải
xa lìa - Oán thù mà gặp gỡ - Thân năm ấm lẫy lừng.
3. Không: Các
pháp đều do nhân duyên tập hợp mà hình thành, không có pháp nào tự nó
hiện hữu. Vì do duyên hợp nên sự hiện hữu ấy chỉ là giả tạm, thật sự bản
chất của các pháp là không. “Không” là thể tánh cả vạn pháp, còn hiện tượng là giả có.
4. Vô ngã: Vì
các pháp do duyên hợp nên không đồng nhất và không có một chủ thể độc
lập. Các pháp cũng vô thường nên không phải cố định. Không có chủ tể,
không đồng nhất và không cố định nên các pháp đều vô ngã.
* Tam pháp ấn
1. Chư hành vô thường: Đã nói ở trên.
2. Chư pháp vô ngã: Vô thường và Vô ngã là hai pháp ấn thuộc Tục đế, là chân lý chi phối mọi sự vật hiện tượng và vạn hữu trong cả ba cõi.
3. Niết bàn tịch tịnh: Pháp
ấn thứ ba thuộc Chân đế, là chân lý xuất thế gian. Hai đặc tính của
Niết bàn là thanh tịnh và thường tri, tức tĩnh lặng mà hằng rõ biết.
Niết bàn không phải là một cõi giới bên ngoài, có thể đạt đến khi nhắm
mắt lìa đời, mà là tự tánh bổn tịch bổn tri của chính mình. Khi nhận ra
và thẩm thấu chân lý vô thường vô ngã của muôn pháp, người tu thoát ly
mọi khổ não, xoay lại soi sáng chính mình, trở về Niết bàn tịch tịnh tự
tâm.
* Nhất pháp ấn
Khi nhận thấy trình độ tâm linh của chư đệ tử đã có thể lãnh hội chân lý tối thượng, Đức Phật mới thuyết giảng về Nhất tâm chân như,
thuộc Trung đạo Đệ nhất nghĩa đế, chỉ rõ con người chân thật thường
hằng ở mọi chúng sanh. Con người chân thật ấy không có hình dáng nên
không hề sanh diệt, không có tên nên được đặt rất nhiều tên: Chân như,
Phật tánh, Pháp thân, Bản lai diện mục… Trở về hằng sống với con người
chân thật là mục đích cuối cùng của người tu, và cũng là bản hoài chư
Phật khi thị hiện nơi đời.
Như
ta đã thấy, không có lời dạy nào của Đức Phật đề cập đến việc giải trừ
sao hạn, coi hướng, coi quẻ, cùng những hình thức cúng tế thuộc tín
ngưỡng dân gian. Mặt khác, giáo lý nhà Phật cũng không phải là một nền
Triết học. Triết học nằm trong phạm vi của Hữu sư trí, trí tuệ có được
nhờ học hỏi thu lượm từ bên ngoài, từ người khác. Trái lại, Phật pháp
được tuyên thuyết bằng Vô sư trí của một Bậc Giác ngộ, tức trí tuệ phát
sinh trong thiền định, khi tâm hoàn toàn vắng bặt mọi vọng tưởng phân
biệt đảo điên. Đức Phật không nói những gì Ngài suy đoán, mà chỉ nói
những gì Ngài đã thấy rõ bằng
Tuệ nhãn, Pháp nhãn và Phật nhãn. Chính vì thế giáo lý nhà Phật là sự
thật muôn đời không thay đổi, là chân lý siêu việt cả không gian và thời
gian.
III. THỰC HÀNH
Lý thuyết như đôi mắt sáng, thực hành như đôi chân khỏe. Muốn đến nơi đến chốn, con người phải có mắt sáng để thấy đường đi và chân khỏe để tiến bước. Mắt và chân là hai điều kiện chủ yếu, tiên quyết và không thể thiếu cho một kẻ lữ hành.
Người Phật tử là một hành giả tâm linh, muốn trở về quê hương muôn thuở thì cần áp dụng giáo lý vào thực hành. Thực hành là chuyển hóa ba nghiệpthân miệng ý, chuyển hóa tự tâm.
Tùy căn cơ, trình độ và sở thích, mỗi người tự chọn cho mình một pháp
môn thích hợp. Đức Phật là vị Đại lương y, có đến tám vạn bốn ngàn pháp
môn đối trị tám vạn bốn ngàn trần lao phiền não. Chúng ta như những bệnh
nhân, đã được chẩn đoán cho toa, phải uống thuốc đúng theo lời dặn
trong toa mới mong khỏi bệnh phiền não.
Một
chai trước chứa thuốc độc, nếu muốn sử dụng nó chứa mật ong, đầu tiên
ta phải đổ hết thuốc độc ra, súc rửa nhiều lần cho thật sạch. Tâm trí ta cũng thế, ba độc tham sân si đã huân tập bao nhiêu đời kiếp. Nếu muốn chứa vị cam lồ giải thoát, trước hết phải tẩy sạch phiền não vô minh. Tịnh tu ba nghiệp, dần dần dừng nghiệp và sạch nghiệp. Không còn nghiệp tức động cơ sinh tử đã ngừng, vòng xích luân hồi bị chặt đứt.
Phương pháp tu hành theo Đạo Phật được phân chia thành Ngũ thừa, Tam thừa và Nhất thừa Phật giáo.
* Ngũ thừa Phật giáo
1. Nhân thừa: Người Phật tử quy y tam bảo, giữ gìn năm giới. Đời sau, người ấy trở lại thân người với mọi điều tốt đẹp.
2. Thiên thừa: Tu mười điều thiện, lánh xa mười nghiệp ác, thác sinh về cõi trời Dục giới.
3. Thinh văn thừa: Tu Tứ Diệu Đế, chứng quả vị Thinh văn (Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la hán)
4. Duyên giác thừa: Tu Thập nhị nhân duyên, quán lý Duyên sinh, giác ngộ bản chất duyên hợp của vũ trụ vạn hữu. Chứng quả vị Duyên giác.
5. Bồ tát thừa: Tu lục độ vạn hạnh. Hành giả thực hành tự độ độ tha, đạt đến cứu cánh Nhất thừa Phật đạo.
* Tam thừa Phật giáo
Chỉ kể Thinh văn, Duyên giác và Bồ tát thừa.
* Nhất thừa Phật giáo
Kinh Pháp Hoa có một ví dụ về “Hội tam quy nhất”,
tức quy Tam thừa về Nhất thừa. Những người con mãi vui chơi trong nhà
lửa, không biết từng giây phút bị lửa đe dọa tính mạng. Người cha muốn
các con mau ra khỏi nhà lửa, nên lập bày phương tiện, hứa cho các con ba
loại xe. Nếu ai ra khỏi nhà, sẽ được sử dụng các loại xe ấy, mặc tình
rong chơi thỏa thích. Khi các con đã an toàn, người cha mới nói thật
rằng, không có ba loại xe mà chỉ có duy nhất là xe trâu trắng. Ba loại xe ví như Tam thừa (Thinh văn, Duyên giác, Bồ tát),
xe trâu trắng là Phật thừa. Các quả vị của Tam thừa chỉ là Hóa thành,
để chúng đệ tử có cơ sở tiến đạo và không cảm thấy ngao ngán vì đường tu
xa xôi diệu vợi. Thật sự chỉ có quả vị duy nhất là Phật quả, là Bảo sở,
là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng là Niết bàn tự tâm ở ngay tại đây và bây giờ!
IV. SỨ MỆNH TRUYỀN BÁ
Sau
khi thành đạo dưới cội Tất-bát-la, Đức Bổn Sư định nhập Niết bàn, vì
những gì Ngài thấy được chứng được đều khó tin khó hiểu; nếu người nghe
sinh tâm nghi ngờ phỉ báng, sẽ vô tình tạo trọng tội. Nhưng do chư Thiên
ba phen khẩn thiết thỉnh chuyển pháp luân, nên Đức Phật đành dùng
phương tiện, tùy duyên giáo hóa. Sứ mệnh truyền bá của Đức Phật lúc còn
tại thế được chia làm năm thời kỳ. Đưa dần trình độ của chư vị đệ tử từ
thấp lên cao. Không kể 21 ngày đầu tiên thuyết kinh Hoa Nghiêm cho các
hàng Bồ tát, 4 thời kỳ hoằng pháp của Đức Phật gồm có(*):
1. Phật thuyết kinh A-Hàm: Trong 12 năm, chỉ dạy mọi phương tiên tự tu tự độ.
2. Kinh Phương Đẳng: Giai đoạn chuyển tiếp từ Tiểu thừa lên Đại thừa, vừa tự độ vừa độ tha. Phật thuyết trong 8 năm.
3. Kinh Bát-Nhã: Thời kỳ này dài nhất, 22 năm, Đức Phật dạy về Tánh Không của vũ trụ vạn loại, về Thật Tướng Vô Tướng của tất cả các pháp.
4. Kinh Pháp Hoa, Niết bàn: Trong 8 năm cuối đời, Đức Phật thấy căn cơ của chư đệ tử đã thuần thục, có thể đảm đương việc lớn là“Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh” nên
tỏ bày lý nghĩa rốt ráo, từ Tam thừa về Nhất thừa, từ Hóa thành đưa về
Bảo sở. Để gieo niềm tin vững chắc cho hội chúng, Ngài đã thọ ký cho các
đệ tử, không kể người trí hay ngu, nam hay nữ, hiền thiện hay xấu ác,
thậm chí đến kẻ tạo tội ngũ nghịch như Đề-Bà-Đạt-Đa hoặc súc sinh nhỏ
tuổi như Long nữ, cũng đều có khả năng thành Phật. Đúng như lời Bồ tát
Thường Bất Khinh: “Tôi không dám khinh các người, vì các người đều sẽ thành Phật!”.
Chúng
ta ngày nay, có nhân duyên lớn gặp được chánh pháp, học hiểu và tu hành
có kết quả, nên tích cực truyền bá giáo lý của Đức Phật để người khác
cũng được lợi lạc, để Phật pháp mãi mãi trường tồn. Tùy khả năng tu học
và hoàn cảnh mình đang sống, chúng ta có thể bằng khẩu giáo hay thân
giáo góp phần làm tốt đời đẹp đạo. Tuy nhiên, việc truyền bá cần theo
tinh thần khế lý khế cơ hay bất biến tùy duyên. Khế lý là phù hợp với
chân lý bất biến của nhân sinh vũ trụ, khế cơ là phù hợp với căn cơ và
thời đại mà tùy nghi sử dụng phương tiện, để ai cũng có thể thấm nhuần
và tu tiến. Người truyền bá Phật pháp lúc nào cũng linh động nhưng không
bao giờ nói sai chân lý. Nhưng ngược lại, nếu nói đúng với chân lý mà
không thích hợp với thính chúng thì cũng khó thuyết phục, khó đưa chánh
pháp thấm sâu vào lòng người, khó giúp đương sự tu hành có kết quả.
Ví
dụ, người Đông phương thường sống với nội tâm, nhịp sống chậm rãi nên
thường ưa thích những pháp môn thâm sâu, có căn bản hoặc tuần tự từ thấp
lên cao. Người Tây phương lại khác, quen với nhịp điệu hối hả, mong có
kết quả nhanh chóng nên thích hợp với các phương pháp làm giảm căng
thẳng thần kinh hoặc giúp an lạc ngay trong hiện đời. Những người sơ cơ
chưa hiểu sâu giáo lý thường ưa nghe về tội phước, nhân quả, nghiệp báo…
Người có trình độ nghiên cứu cao hơn lại rất tâm đắc về những đề tài Vô
thường, Vô ngã, Duyên sinh… Đặc biệt, đối với những Phật tử vừa uyên
thâm giáo lý vừa có công phu tu hành chuyên sâu, đây là mảnh đất tâm trù
phú để gieo chủng tử vô lậu, là những người có thể gánh vác trọng trách
tự lợi lợi tha, tự giác giác tha.
*
Thuyền
bè hay ngọn đuốc sáng là cứu tinh cho những người sắp chết đuối hoặc
đang bị lạc vào rừng rậm thâm u. Nhưng nếu lên thuyền mà không chèo, có
đuốc soi đường mà không đi, thì biết bao giờ thoát nạn? Giáo lý nhà Phật
thậm thâm vi diệu, muôn kiếp khó tìm, chúng ta được nghe và hiểu đúng
Phật pháp là điều hy hữu. Đã có duyên sâu dày, chúng ta càng nên nỗ lực
tu hành, tùy duyên theo hoàn cảnh riêng. Bao nhiêu sóng gió trở ngại
trong đời, ta kham nhẫn chịu đựng rồi yên ổn vượt qua, vì ta đã có hướng đi, có mục đích cao cả là chuyển hóa bản thân, xây dựng gia đình hạnh phúc và góp sức cải thiện xã hội. Bằng những việc cụ thể làm lợi mình lợi người như thế, chung ta đã biết đền ơn chư Phật một cách thiết thực và đầy đủ ý nghĩa.
Thích Thông Huệ
Nguồn: Trích từ tập sách “Sứ mệnh của Đạo Phật” - NXB Tổng hợp, Tp.HCM - 2010