. Nhưng
chủ thể thực hiện và hưởng thụ của hai quá trình này không ai khác hơn
chính là con người dân tộc và con người cá nhân của đất nước ta.
Hai quá trình này chi phối trực tiếp và gián tiếp đến mọi thành phần xã
hội trong thời kỳ mới của đất nước. Hai quá trình đó đặt con người cá
nhân và con người xã hội trực tiếp đối diện với mọi cơ hội mà chúng đem
lại, nhưng cũng là các rủi ro mà người ấy phải đặt ra giải quyết, và
như thế không chỉ đòi hỏi mỗi người làm tròn bổn phận trên nền tảng
năng lực riêng, mà còn đòi hỏi đạo đức của người ấy đáp ứng nhu cầu
chia sẻ và cảm thông, nhu cầu đạt đến sự công bằng cho mỗi cá nhân và
các nhóm xã hội trong đất nước ta.
Nhìn lại hơn hai mươi năm đổi mới và phát triển, ta có
thể thấy sự đi lên của nền kinh tế, của lực lượng sản xuất, của cơ sở hạ
tầng, của sự mở rộng hội nhập, nhưng bình tĩnh để suy xét thì ta cũng
giật mình với nhiều dấu hiệu cho thấy khá nhiều nhóm xã hội và tầng lớp
xã hội đang đứng trước nguy cơ bị đặt ra ngoài lề phát triển, hoặc
đang thực hành các hành vi “lệch chuẩn” và “loạn cương”, theo quan niệm
của tâm lý học hiện đại. Các hành vi đó không đơn thuần chỉ là chỉ dấu
tâm lý học, mà là chỉ dấu của một loạt các tác động hữu hình và vô
hình, chứa chất các yếu tố khác nhau từ ý thức hệ, triết lý và tình cảm
khác nhau mà nói đến chúng thì nhiều vô số. Nói cách khác, đằng sau
những thành công thì đã dần lộ diện các dấu chỉ khiến cho sự phát triển
trở nên thiếu tính vững bền. Mà trung tâm của sự thiếu tính vững bền
đó không ai khác chính là con người cá nhân và con người dân tộc ta.
Người ta phải kêu lên vì sao thấy có sự phát triển, nhưng sờ vào đâu
cũng thấy có lỗi lầm, và không ít người tưởng như không bao giờ mắc
phải sai lầm thì cũng có thể. Thì ra, ngoài sự phát triển kinh tế,
người ta còn cần “phát triển” cả nhân cách và đạo đức, nhiều người đã
cảm nhận thấy điều này và mong mỏi có sự đóng góp để cải thiện tình
hình.
2. Đứng trước một thực tại như thế, không phải không có
các sự đánh động từ phía Đảng và Nhà nước, các đoàn thể quần chúng và
tổ chức xã hội, của dư luận quốc tế. Thậm chí cũng đã có nhiều biện
pháp và giải pháp (cả về lý và về tình) nhằm giải quyết sao cho sự phát
triển trở nên hài hòa nhưng dường như càng sử dụng các phương cách
khác nhau thì kết quả khắc phục càng như vô hiệu, sự lệch chuẩn và loạn
cương trong hành vi chưa chấm dứt, giảm thiểu. Hình như các công cụ
điều chỉnh đưa ra đều như “giọt sương trên lá”, lại đâu hoàn đó, và sự
nhức nhối do đó không hề giảm đi, nếu không muốn nói là con người giờ
đây dường như cam chịu sống chung với sự nhiễu loạn. Và câu hỏi tưởng
như đã nguội, tưởng như không bao giờ phải đặt lại, lại vọng lên: vì
sao người ta không thể cùng hưởng một cuộc sống vật chất dồi dào đi
liền với hạnh phúc trọn vẹn? Đâu là ý nghĩa của cuộc sống hiện tại? Thế
nào là công bằng và bình đẳng, làm thế nào để có chúng trong thực tại?
Đâu là giải pháp hữu hiệu và hữu hình để ta có thể thực hiện được một
lý tưởng tự do nơi con người cá nhân nhưng lại có thể hòa hợp với cộng
đồng hay con người dân tộc? Sự tiến bộ về tiêu thụ và mức sống nâng cao
có thể tương thích với một đời sống nội tâm và tinh thần phong phú
chăng, hay có cái này thì phải hy sinh cái kia và ngược lại? Có thể đặt
hằng chục các câu hỏi tiếp nữa.
Hỏi như thế là để trả lời, hay góp thêm một câu trả lời.
Giờ đây, không gian sống của con người cá nhân thu hẹp về giao tiếp
nhưng người ấy lại đang bơi trong sự bùng nổ thông tin các chiều khác
nhau. Do đó, con người ấy dễ dàng bị đưa vào một mạng các giá trị thật
cũng có mà ảo cũng có, cùng với các điều kiện sống thực tế của anh ta,
những giá trị thật và ảo đó đã phát huy tác dụng, không thể nói là hoàn
toàn tiêu cực, nhưng lại càng không thể nói là hoàn toàn tích cực.
Chính vì thế, với truyền thống cộng đồng đã định hình từ lâu trong xã
hội ta, các giá trị thật và ảo đó được truyền lan và trở thành dư luận
không ai có thể kiểm chứng thấu đáo, nhất là đối với những tầng lớp
người còn đang nghèo khổ. Vì vậy, không thể nói rằng chúng ta đã giải
quyết được vấn đề nếu chỉ dựa vào các công cụ pháp lý và tâm lý thuần
túy, mặc dầu chúng rất cần, nhưng chúng lại là các áp lực nằm ngoài con
người, không phải là sự thôi thúc từ bên trong con người đang mong
muốn cải thiện tình hình.
3. Nhìn lại lịch sử, đã không còn nghi ngờ gì khi chúng
ta khẳng định đạo Phật đã là một phần máu thịt của tâm hồn Việt Nam. Đã
có nhiều công trình nghiên cứu giúp chúng ta ngày càng khẳng định tính
chất đó.
Nhiều giá trị của đạo Phật và phép ứng xử rút ra từ nó
đã trở thành truyền thống và tập quán đối với người Việt Nam ta. Sự
“quen thuộc” ấy như đã ăn sâu vào tiềm thức, khiến ít ai lại đặt ra câu
hỏi rằng đó có phải là do đạo Phật đem lại hay không. Cố nhiên, cha ông
ta khi tiếp thu đạo Phật không phải là trên nền tảng của sự trống rỗng
tâm linh và tâm hồn, mà ta có thể khẳng định ngay rằng nền tảng đó là
sự tôn kính và thờ phụng tổ tiên với tư cách như là một “tôn giáo” chủ
đạo mà tài liệu khảo cổ học và ghi chép lịch sử đã cho biết. Đạo Phật
du nhập không những không bào mòn nền tảng đó trên cơ sở của giáo pháp
và thực hành trong thực tế cuộc sống, mà còn góp phần củng cố bằng
truyền thống truyền thừa lịch đại tổ sư, như Thiền Uyển Tập Anh là một
minh chứng. Đó có thể được coi là cuốn “gia phả” (phả hệ) xưa nhất mà
hiện nay ta có thể biết ở nước ta. Vì thế, có thể mạnh dạn nói mà không
sợ sai rằng đạo Phật với thờ cúng tổ tiên là hai cột trụ, cùng với
tiếng nói làm thành ba chân kiềng nhằm lưu giữ bản sắc văn hóa dân tộc.
Đạo Phật đã phát triển đến độ chín muồi ở Việt Nam để ta có thể nhận
định có một đạo Phật Việt Nam qua hình ảnh cao diệu của vị Vua Phật tử
Trần Nhân Tông cùng với tư tưởng “cư trần lạc đạo” đầy tính khai phóng
và làm tròn bổn phận và thời đại Lý, Trần rực rỡ mà nay không ai có thể
phủ bác.
Kể từ đó, tuy có lúc thăng trầm, đạo Phật Việt Nam đã
thành một hình hài riêng biệt, trở thành động lực gắn kết xã hội Đại
Việt cho đến mãi ngày nay, khiến ta gọi nó là một phần máu thịt của tâm
hồn Việt Nam. Đây là căn cứ khoa học xuất phát từ lịch sử để ta tin vào
sự đóng góp của đạo Phật trong thời kỳ nước ta tiến hành công cuộc
hiện đại hóa.
4. Song, nếu chỉ căn cứ vào lịch sử dễ khiến ta nghĩ
rằng đạo Phật Việt Nam đã qua thời rồi. Và quả thực đã có thời ta đã
nghĩ đến sự lạc hậu của đạo Phật chỉ vì căn cứ vào một số hình ảnh lệch
lạc của nó. Trái với những ước đoán như thế, đạo Phật ngày nay đang
đứng trước cơ hội lớn hơn bao giờ để có thể phát huy ảnh hưởng và trở
lại thời kỳ huy hoàng của nó. Cơ sở nào khiến nảy sinh một nhận định
như vậy? Theo chúng tôi, có mấy lý do sau:
- Thứ nhất, phải nói chính sự phát triển như vũ bão của
đất nước sau hơn hai mươi năm đổi mới đã tạo điều kiện cho tư tưởng của
đạo Phật được nhận thức một cách rõ ràng hơn, mạch lạc hơn và nhất
quán hơn rằng đây không phải là một tôn giáo đi ngược lại với lợi ích
của chính con người cá nhân và con người dân tộc. Nó lại càng không đi
ngược lại với thời đại khoa học và công nghệ mà dân tộc ta đang bước
vào, trái với việc quy kết cho nó một số đặc tính như mọi tôn giáo còn
lại. Nói cách khác, đạo Phật thích hợp với thời đại ngày nay. Đã có
nhiều, rất nhiều nhân tố tích cực của một xã hội Việt Nam đổi mới hình
thành và đạo Phật có thể nương theo để xiển dương giáo pháp khoa học
của mình (dựa trên ba nguyên lý là vô thường, khổ và vô ngã)
- Thứ hai, từ bản chất, đạo Phật là một khoa học, khoa
học về đời sống nội tâm và cải biến nội tâm. Nó tránh những lý giải dài
dòng và trừu tượng, tư biện, nó hướng đến một sự thực hành căn bản là
làm cho thể xác (thân) và tinh thần (tâm), không còn có sự ngăn cách và
phân biệt, mà là một, thống nhất hai phần vốn đã không thể tách rời
thành một thực thể duy nhất thực tồn sống động.
- Thứ ba, khác với nhiều luận thuyết và giáo lý lấy sự
phụ thuộc bên trên làm căn bản, đạo Phật lấy chính nội tâm con người làm
căn bản. Nói cách khác, nếu thực tập và thực nghiệm nội tâm đúng cách,
ta sẽ có an lạc chân chính, sẽ xây dựng cuộc đời thực ngay trong hiện
tại, không phải chờ đến lúc nào khác, hoàn cảnh nào khác, vì còn đâu sự
phân biệt, hơn thua, tranh đoạt để mà phiền não và hy vọng ở tha nhân
và tha lực. Cuộc sống bình thường của ta sẽ là một cảnh sống an vui và
bình dị, “thuận thù” theo hoàn cảnh và không bị xao xuyến so đọ. Đó
chính là cơ sở quan trọng để ta nói đến tính bền vững của nhân tính
trong con người ta.
- Thứ tư, nếu chỉ như vậy thì đạo Phật liệu có gì hơn
chủ nghĩa duy lý và tư tưởng khoa học đang chiếm vị thế thượng phong.
Khác với một tư duy duy lý cùng cực, giáo pháp của đức Phật còn dạy và
hướng dẫn con người lòng từ bi, thương đồng loại vô bờ. Đây mới là đặc
tính chủ yếu nhất của đạo Phật. Nói cách khác, con người ta không chỉ
tin tưởng, mà còn có thể thực hành lòng thương đó một cách thực tế, vô
điều kiện. Chính phẩm tính từ bi đã làm nên đạo Phật, làm nên những đặc
tính dân tộc như “bầu ơi thương lấy bí cùng...”, hay “lá lành đùm lá
rách”, hay “chín bỏ làm mười”, hay “một miếng khi đói bằng một gói khi
no”, hay “thương người như thể thương thân”, v.v... và nhiều đặc tính
khác. Cho nên, chúng tôi nghĩ rằng dân tộc nào đã biết dùng đạo Phật làm
lẽ sống, nhất định dân tộc đó là một dân tộc của lòng từ bi, nhất định
dân tộc đó có tương lai xán lạn. Và dân tộc ta là một dân tộc như thế.
Để kết thúc bản tham luận, chúng tôi xin nhấn mạnh đến vai trò to lớn
của đạo Phật trong xây dựng nội tâm con người mới của xã hội ta ở thời
kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa, và đó chính là một trong những nền
tảng vững chắc để có thể khiến sự phát triển trong thời kỳ tới đây có
được một tính chất đáng mong muốn, đó là sự phát triển bền vững. Chúng
tôi tin tưởng như vậy.
TS. Nguyễn Quốc Tuấn
Viện Nghiên cứu Tôn giáo - Viện Khoa học Xã hội Việt Nam
(Tham luận Hội thảo Vesak 2008)
http://giacngo.vn/lichsu/2008/05/31/72441B/