Chùa Bửu Minh Gia Lai - Mobile
Nghe tham luận của ĐĐ. Nhật Từ suy nghĩ thêm về giáo dục đạo đức PG cho tuổi trẻ
PGS.TS. Hàn Viết Thuận – Đại học KTQD
11/04/2011 12:34 (GMT+7)

Hội thảo quốc tế với chủ đề "Giao lưu văn hóa giữa Ấn Độ và Việt Nam” đã diễn ra trong hai ngày 6 và 7 tháng 4 năm 2011 tại khách sạn Melia Hà Nội do Hội đồng trao đổi văn hóa Ấn Ðộ, Ðại sứ quán Ấn Ðộ tại Việt Nam phối hợp với Viện Khoa học Xã hội Việt Nam và Giáo Hội Phật giáo Việt Nam đồng tổ chức

Hội thảo đã qui tụ được nhiều học giả, nhiều nhà nghiên cứu Phật giáo, nhiều giáo sư, Tiến sỹ của các nước Việt Nam, Ấn Độ, Srilanca , Trung Quốc, Camphuchia và Thái Lan

Các báo cáo khoa học trong hội thảo đã đề cập đến mối liên hệ văn hóa từ hàng nghìn năm trước giữa Việt Nam và Ấn Độ thông qua hệ qui chiếu và chiếc cầu nối là Phật giáo. Một số báo cáo đã trình bày các vấn đề học thuật rất chuyên sâu về Phật giáo, về sự phát triển của Phật giáo ở Việt Nam từ cái nôi Phật giáo Luy Lâu ở miền Bắc hàng nghìn năm về trước

Tôi rất quan tâm đến bản báo cáo khoa học về vấn đề giáo dục Phật giáo trong sự phát triển bền vững của Châu Á  do Đại đức Thích Nhật Từ - Phó Viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh, Trụ trì chùa Giác Ngộ trình bày

Khi nghe bản báo cáo này tôi có thêm nhiều suy ngẫm về sự cần thiết phải giáo dục đạo đức Phật giáo cho tuổi trẻ. Đây là vấn đề mà tôi đã có dịp đề cập đến đôi lần

Ai cũng biết rằng sự khát khao có một cuộc sống hòa bình và an lạc trên trái đất này là một hằng số chung bất biến của mọi dân tộc. Thế nhưng những ai quan tâm đến tình hình thế giới trong những năm gần đây đều thấy một thực tế là hàng ngày, hàng giờ đang diễn ra nhiều sự kiện đau lòng!

Đó là những xung đột sắc tộc và tôn giáo triền miên, các cuộc bạo động chính trị xuất phát từ lòng hận thù dai dẳng. Thêm vào đó là sự tàn phá dữ dội hơn bao giờ hết của sức mạnh thiên nhiên.

Báo cáo khoa học của Đại đức Thích Nhật Từ nêu lên vấn đề làm thế nào để đảm bảo cho sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia nói riêng và của một châu Á đa văn hóa và đa tôn giáo nói chung.

Châu Á là một vùng lãnh thổ rộng lớn và đông đúc dân cư. Chỉ riêng hai nước Trung Quốc và Ấn Độ đã chiếm một nửa dân số toàn cầu. Châu Á cũng nổi tiếng trong lịch sử  nhân loại với nền văn minh sông Hằng và nền văn minh Trung Hoa hình thành từ hàng nghìn năm trước.

Châu Á cũng là nơi đan xen các nền tôn giáo trong đó có mặt tất cả các tôn giáo lớn nhất của nhân loại như Phật giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo, Hinđu giáo.

Từ xưa đến nay trong khu vực châu Á cũng đã diễn ra không biết bao nhiêu là xung đột và chiến tranh. Gần đây nhất là xung đột vũ trang và bạo lực không dứt ở Pakistan, Apganistan, Srilanca.

Đó là chưa kể đến những vụ đánh bom và bắt cóc con tin kinh hoàng xảy ra ở Indonexia, Thái Lan và Philippine.

Xuất phát từ thực tế đó, trong báo cáo khoa học của mình, Đại đức Thích Nhật Từ đề xuất một giải pháp Phật giáo cho vấn đề này. Đó là việc giáo dục tôn giáo, trong đó đặc biệt là giáo dục Phật giáo cho người dân châu Á.

Từ hơn hai nghìn năm trước Đức Phật đã ra đời để chỉ dạy cho chúng sinh hiểu được căn nguyên của những nỗi khổ đau muôn thuở của con người và cách vượt qua những nỗi khổ đau đó nhằm mang lại thái bình và an lạc cho mỗi con người, cho cộng đồng xã hội và cho toàn nhân loại.

Bản chất của nền giáo dục Phật giáo là Từ Bi Hỷ Xả, là tất cả vì con người, vì hòa bình và an lạc cho mọi chúng sinh.

Giáo dục Phật giáo có vai trò rất to lớn trong việc nâng cao nhận thức của người dân về sự cùng tồn tại hòa bình, về sự đảm bảo lợi ích hài hòa giữa các nước không phân biệt qui mô dân số và lãnh thổ.

Mục đích của giáo dục Phật giáo là hướng đến xây dựng một xã hội dựa trên sự tôn trọng và bình đẳng giữa các quốc gia và các dân tộc, một xã hội không còn bạo lực.

Trong xã hội thì vấn đề giáo dục sự đoàn kết đồng lòng có ý nghĩa sống còn. Ngoài cuộc sống vật chất thì các nhà lãnh đạo xã hội cũng phải đảm bảo cho người dân được bày tỏ tâm tư nguyện vọng của mình đối với những vấn đề quốc kế dân sinh có tầm ảnh hưởng quốc gia.

Đó chính là cái kế “sâu rễ bền gốc" mà Đức Thánh Trần đã truyền dạy lại cho hậu thế.

Trong phần trao đổi học thuật, một học giả tham gia hội thảo đã bày tỏ sự đánh giá cao tính khoa học và tính thực tiễn trong bản tham luận của Đại đức Thích Nhật Từ. Học giả này cũng đề nghị Đại đức Thích Nhật Từ nói rõ hơn về giáo dục Phật giáo theo quan điểm của Đức Phật.

Đại đức Thích Nhật Từ nói rằng trong Kinh Pháp cú chương 11 Đức Phật đã chỉ ra 4 nội dung giáo dục cho giới trẻ:

Thứ nhất là giáo dục Trí tuệ

Trí tuệ của mỗi con người không chỉ là tri thức mà còn cao hơn trí thức. Giáo dục trí tuệ giúp cho những người trẻ tuổi luôn luôn biết tư duy và hành động một cách đúng đắn.

Thứ hai là giáo dục đạo đức

Giáo dục đạo đức cho tuổi trẻ nhằm giúp họ biết về các chuẩn mức đạo đức trong xã hội, biết đóng góp cho sự phát triển của xã hội.

Thứ ba là giáo dục về sức khỏe

Giáo dục sức khỏe giúp tuổi trẻ hiểu rõ về Thân và đóng góp của Thân cho nhân loại.

Thứ tư là giáo dục thiên hướng nghề nghiệp

Một người trẻ tuổi khi đến tuổi trường thành thì phải thông thạo nghề nghiệp để nuôi sống mình và góp phần phụng dưỡng cha mẹ và người thân.

Thật kinh ngạc là từ hơn hai nghìn năm trước mà Đức Phật đã dạy những điều vô cùng xác đáng về nội dung giáo dục tuổi trẻ. Tôi cho rằng những nội dung ấy vẫn còn giữ nguyên giá trị tham khảo trong thời đại hôm nay.

Một vị học giả khác cũng cho rằng bản tham luận khoa học của Đại đức Thích Nhật Từ là rất đúng đắn về mặt tư duy. Nhưng vị học giả này còn băn khoăn về tính thực tiễn của giáo dục Phật giáo trong việc giải quyết các xung đột có yếu tố bạo lực.

Ông lấy ví dụ cụ thể về tình hình không ổn định ở 4 tỉnh miền Nam Thái Lan vốn trong lịch sử là một quốc gia Hồi giáo. Vị học giả hỏi  Đại đức Thích Nhật Từ là việc giáo dục Phật giáo liệu có thể góp phần giải quyết tình trạng bất ổn này hay không.

Đây là một câu hỏi khó và tế nhị vì nó không chỉ liên quan đến vấn đề giáo dục Phật giáo mà còn đến lợi ích của các tôn giáo khác nhau ở Thái Lan là Đạo Phật và Đạo Hồi. Thêm vào đó là sự có mặt của các nhà khoa học Thái Lan đang tham gia hội thảo.  

Đại đức Thích Nhật Từ cho rằng mấu chốt để giải quyết các xung đột là phải thấy được sự khác biệt về tôn giáo trong một quốc gia. Không nên đào sâu thêm các dị biệt mà phải biết phát huy thêm các giá trị tương đồng. Trước hết nên thương nhượng với nhau  nhằm mục đích hòa giải. Nếu không thương nhượng được thì mới chuyển sang giai đoạn thương lượng mà cốt lõi là dựa trên luật pháp.

Đại đức Thích Nhật Từ nói cụ thể hơn rằng Thái Lan là một đất nước theo Đạo Phật là chủ yếu. Các vị Thủ tướng Thái Lan từ trước đến nay phần lớn đều là người theo Đạo Phật nên việc giải quyết các xung đột ở bốn tính miền Nam cũng được xử lý theo tình thần Phật giáo mà họ đã được giáo dục trong chùa.

Đại đức Thích Nhật Từ nói rằng vốn là Phật tử nên các nhà lãnh đạo Thái Lan đã không chủ trương dùng vũ lực để trấn áp mà luôn luôn kêu gọi giải quyết xung đột bằng biện pháp hòa bình thương lượng.

Họ còn chủ động kêu gọi các nhà sư Thái Lan đã bị khủng bố, bị bạo hành, đánh đập hãy từ bi hỷ xả mà không lấy oán trả oán đối với những người đã gây ra tai vạ cho mình. Nhờ thế tình hình đã không bùng phát thêm lên.

Một vị Giáo sư người Thái Lan tham gia hội thảo đã đứng lên phát biểu làm rõ thêm về tình hình xung đột ở 4 tỉnh miền Nam Thái Lan. Ông cũng cảm ơn Đại đức Thích Nhật Từ về sự am hiểu và thông cảm tình hình đất nước ông và về lời giải thích thỏa đáng của Thầy.

Tôi rất quan tâm đến vấn đề giáo dục cho giới trẻ với 4 nội dung mà Đức Phật đã chỉ ra từ hàng nghìn năm trước.

Ai cũng biết từ thập kỷ 80 đến nay do tác động của cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, nền kinh tế thế giới đã trải qua những biến đổi vô cùng sâu sắc. Đây là giai đoạn mà nền kinh tế chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức, nền văn minh nhân loại chuyển từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ.

Chưa bao giờ vai trò của tri thức, của khoa học và công nghệ đối với sự phát triển kinh tế xã hội lại trở nên quan trọng như thế. Chưa có thời kỳ nào trong lịch sử mà sự thay đổi trong xã hội lại diễn ra nhanh chóng, sâu sắc và toàn diện đến như thế. Điều đó buộc người ta phải hành động nhanh chóng, phải "làm việc theo tốc độ của tư duy" như lời của Bill Gates.

Xét trong bối cảnh ấy vấn đề giáo dục và đào tạo đã trở nên mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia trên thế giới. Tuổi trẻ là tương lai và là niềm hy vọng của mỗi gia đình và của toàn xã hội. Đức Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thích Phổ Tuệ đã có lần nói rằng tuồi trẻ là mầm chồi của mỗi quốc gia. Nếu mầm chồi mà đã bị thui chột thì làm sao quốc gia có thể phát triển lên được.

Từ khi đất nước đổi mới và hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới thì cuộc sống vật chất của nhân dân khắp thành thị và nông thôn đã có sự tiến bộ đáng kể.

Chính phủ Việt Nam đã rất chú trọng đến giáo dục, coi giáo dục là quốc sách. Đầu tư cho giáo dục từ ngân sách quốc gia cũng không ngừng tăng lên qua các năm.

Theo số liệu thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, nếu năm 1987 cả nước có 107 trường Đại học và Cao đẳng, thì năm 2009 con số này là  376 trường, tăng 3,7 lần. Chỉ riêng 2 năm 2006-2007 đã có gần 40 trường Đại học mới được thành lập hoặc nâng cấp từ trường Cao đẳng. Nhờ sự gia tăng nhanh chóng về số trường, tổng số sinh viên cũng tăng 13 lần, từ trên 133.000 năm 1987 lên trên 1,7 triệu năm 2009. Số lượng công nhân có tay nghề đã tăng từ 12,3% năm 1996 lên 27% trong năm 2005.

Tuy nhiên cùng với sự phát triển đáng trân trọng đó thì cũng đã xuất hiện những biểu hiện đáng lo ngại về hành vi và đạo đức của một bộ phận không nhỏ những người trẻ tuổi.

Phải thẳng thắn thừa nhận một thực tế là hàng ngày, hàng giờ xung quanh chúng ta đang xảy ra biết bao nhiêu là tệ nạn liên quan đến tuổi trẻ. Nào là trộm cắp, bạo lực học đường, nghiện ngập ma túy. Nào là coi thường cha mẹ, vô lễ với Thầy cô. Thậm chí có trường hợp còn phạm tội ở mức gây ra án mạng đã làm dư luận xôn xao trong thời gian gần đây.

Chúng tôi cho rằng không thể giải quyết vấn nạn này bằng các mệnh lệnh cấm đoán của gia đình, nhà trường hoặc xã hội. Cũng không thể có hiệu quả lâu dài khi áp dụng các biện pháp quản lý mang nặng tính hành chính như đã làm lâu nay.

Không ai có thể giám sát được con cái mình mọi lúc mọi nơi. Vấn đề là phải làm sao để các em tự nguyện giám sát được chính bản thân mình. Muốn thế thì cùng với việc giáo dục học đường nhằm trang bị các kiến thức chuyên môn nghề nghiệp cho giới trẻ thì việc giáo dục đạo đức Phật giáo là một giải pháp căn cơ góp phần giải quyết tận gốc vấn nạn này.

Chỉ sau khi đã đạt được sự thống nhất chung về nhận thức như vậy giữa Giáo hội Phật giáo Việt Nam và Nhà nước thì chúng ta mới có thể bàn đến các giải pháp triển khai cụ thể.

Trước hết là việc lựa chọn các nội dung để đưa vào chương trình giáo dục đạo đức Phật giáo cho thanh thiếu niên. Bước tiếp theo là đề xuất các hình thức tổ chức nhằm từng bước thực hiện qui trình giáo dục này một cách hiệu quả nhất.

Nếu được thực hiện thì đây sẽ là một chương trình giáo dục đạo đức cho tuổi trẻ có tầm ảnh hưởng và qui mô to lớn nhất từ trước đến nay! 

Trong giai đoạn hiện nay, khi mà những vấn nạn do tuổi trẻ gây ra đã trở nên nhức nhối cho toàn xã hội thì vấn đề giáo dục đạo đức Phật giáo cho thanh thiếu niên là một việc làm vô cùng cần thiết và không thể chậm trễ hơn được nữa !

Nếu không thì sẽ là quá muộn!

http://www.phattuvietnam.net

Các tin đã đăng:
Về đầu trang