Qua Thư ngỏ, tôi nhớ đến hai câu đối trước
chánh điện thờ năm vị Bồ Tát của một ngôi chùa người Hoa ở California mà tôi đã
có dịp viếng thăm:
“Ngũ
thánh đồng tâm khai Tịnh độ
Thất chúng hiệp lực hộ Đạo
tràng”.
Ý nghĩa câu đối khuyên bảo bảy chúng đệ tử của Phật, phải
đoàn kết chung sức chung lòng quyết tâm ủng hộ và gìn giữ Đạo tràng mà chư Phật
chư đại Bồ tát đã dày công sáng lập ra.
Cũng từ Thư ngỏ và hai câu đối đó, tôi lại nhớ
đến các bậc Tiền bối hữu công ở đầu thế kỷ 20 đã khởi xướng phong trào Chấn
Hưng Phật Giáo, như lời kêu gọi của một nhà báo, ông Nguyễn Mục Tiên viết trên tờ “Đông Pháp thời báo” số 259, xuất bản ở Sài gòn ngày
5.1.1927. Ông đã viết: “Nên chấn hưng Phật
giáo ở nước nhà” vì “trót một thế kỷ nay, nòi giống ta đã bị một cái đại tôn
giáo khác kia làm mất cả tinh thần đức tính của ông cha ta, chia rẽ đồng bào ta
ra… ta lẽ nào lại chưa tỉnh ngộ, còn muốn rước thêm, chế thêm đạo mới”. Ông
cho rằng người Việt Nam muốn mạnh về đường tinh thần…nên vãn hồi lại lý tưởng cổ,
tín ngưỡng cổ đã từng nuôi nấng và xây dựng nên truyền thống đạo đức mấy đời
ông bà ta, Phật giáo đã có công gây dựng một phần lớn trong đấy. Ông đề nghị
các nhà thức giả trong nước, nhất là những gia đình có nhiều thế hệ sùng bái đạo
Phật hãy mở cuộc điều tra về tình hình tôn giáo ở nước ta và góp sức vãn hồi lý
tưởng. Nếu ai có ý kiến nhằm Chấn hưng Phật giáo, hãy mau đăng trên báo Đông
Pháp. Bài báo của ông Nguyễn Mục Tiên đã ảnh hưởng lớn đến cả ba miền Nam,Trung,
Bắc nước ta.
Ở
Nam kỳ, Sư Thiện Chiếu ở chùa Linh sơn (Sài gòn) sau khi đọc bài “Nên chấn hưng Phật giáo ở nước nhà” của
ông Nguyễn Mục Tiên trên Đông Pháp thời báo, Sư đã hưởng ứng và viết bài “Chấn
hưng Phật giáo ở nước nhà” cũng đăng trên Đông Pháp Thời Báo số 532 ra ngày
14.1.1927. Với đề xuất ba điểm cụ thể:
- Lập Phật học báo quán để
truyền bá Phật lý, khi Phật lý được vãn hồi sẽ xóa bỏ được những điều mê tín.
-Lập Phật gia công học để đào
tạo ra những bậc hoằng pháp mô phạm để truyền giáo về sau.
- Dịch kinh Phật ra tiếng ta để
cho Phật giáo nước ta sau nầy khỏi sợ thất nguyên.
Sư đề
nghị: “Xin các nhà trí thức nước ta, ai
có lòng muốn Chấn hưng Phật giáo đứng ra tổ chức một cái hội Chấn hưng Phật học,
liên hiệp những người nào trong Tăng đồ đã biết nghĩa vụ và trách nhiệm của
mình thì thi hành ba cách trên”.
Ở Bắc
kỳ, Sư ông Tâm Lai trú trì chùa Tiên Lữ, tục gọi là chùa Hang làng Long Thái, đồn
điền Đồng Bẩm, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên, nhân đọc bài báo “Nên chấn hưng
Phật giáo ở nước nhà” của ông Nguyễn Mục Tiên, Sư ông tâm đắc nên đã hưởng ứng
và viết bài kêu gọi Chấn hưng Phật giáo đăng trên tờ “Khai Hóa nhật báo” số 1640 ra ngày 16.1.1927 với một chương trình
ba điểm:
*Lập giảng đàn trong chùa.
* Mở các trường (sơ học yếu lược,
sơ đẳng tiểu học) bên cạnh các chùa, đón các thầy bên ngoài vào dạy, chỉ thêm mỗi
buổi học 10 phút giảng kinh Phật.
* Lập nhà nuôi trẻ khó, thu
các người tàn tật đói khó vào nuôi, dạy cho họ nghề nghiệp sinh nhai, làm nhà bảo
cô dành cho các trẻ em mồ côi và nuôi cho chúng ăn học.
Ở
Sài gòn, HT. Khánh Hòa được tin ngoài Bắc có người khởi xướng Chấn hưng Phật
giáo có chương trình cụ thể, Ngài cử sư Thiện Chiếu ra Bắc gặp các sơn môn
ngoài đó để bàn chuyện thành lập Việt Nam Phật giáo hội, tháng 5.1927 sư Thiện
Chiếu ra đến Hà nội yết kiến Tăng cang Đổ Văn Hỷ, sư cụ trú trì chùa Bà Đá (Linh
Quang tự) xin phép lên gặp sư ông Tâm Lai. Sư ông Tâm Lai và sư Thiện Chiếu hai
người ngồi với nhau một đêm mà không tìm được tiếng nói chung (có lẽ vì sự dè dặt).
Cuối tháng 5.1927 sư Thiện Chiếu trở về Nam, mang theo một số tạp chí “Hải Triều Âm” có đăng chương trình Chấn
hưng Phật giáo của Trung Quốc do đại sư Thái Hư đề xuất. Trên đường về, sư ghé
qua trường hương chùa Long Khánh (Qui Nhơn) gặp H.T. Khánh Hòa và H.T Huệ Quang
để báo cáo về chuyến đi của mình. Từ đó phong trào bị chìm lắng một thời gian
ngắn, mãi đến ngày 26.8.1931, hội “Nghiên
cứu Phật học Nam kỳ” mới được ra đời với tạp chí “Từ Bi Âm”, và đến năm 1932-1933 phong trào CHPG Bắc kỳ mới được khởi
động lại, do lớp người trẻ hơn, năng động hơn, thực tế hơn. Đó là các sư ông
Trí Hải, Thái Hòa…và các cư sĩ như Lê Toại, Nguyễn Hữu Kha, Trần Văn Giác…
Ở
Trung kỳ, năm 1932 tại miền Trung hội “An
Nam Phật học” ra đời, trụ sở đặt tại chùa Từ Đàm (Huế) với những vị sáng lập,
bên tăng có H.T. Giác Tiên (viện chủ chùa Trúc Lâm)…bên cư sĩ có bác sĩ Tâm
Minh Lê Đình Tám…Hội mở nhiều chi hội ở các tỉnh, quận, xã khắp cả miền Trung.
Phong
trào CHPG qua bài “Ghi ân các bậc Tiền Bối
Hữu Công trong phong trào CHPGVN”của cố
HT. Thích Thiện Hoa đọc trong lễ kỷ niện lần đầu tiên tại chùa Ấn
Quang Sài gòn. Toàn văn như sau:
Lời Nói Đầu
“Uống nước nhớ nguồn”, đó là lẽ
thường tình của con người, huống hồ là Phật tử. Hôm nay hàng Phật tử chúng ta
đang sống trong hào quang tươi sáng của Phật, trong một tổ chức có quy mô,
trong một đường lối giáo dục có phương pháp và trong một tinh thần thống nhất ý
chí hành động. Đó là nhờ sự gắng công thường xuyên, ý chí bất khuất của các bậc
Tiền Bối trong phong trào CHPGVN, 50 năm về trước của ba miền Nam, Trung, Bắc.
Gần 100 năm về trước, quê hương Tổ quốc của chúng ta bị người Pháp đô hộ, dân tộc
ta và những gì mang nặng dân tộc tính, có tinh thần quốc gia đều bị thực dân
Pháp bóp chẹt. Phật giáo Việt Nam nằm trong tình trạng ấy.
Nhưng không hẹn mà nên, 50 năm
về trước, các vị Tiền Bối
cùng nằm trong một thời kỳ, cùng trong một hạnh nguyện, đã khởi xướng và đẩy mạnh
phong trào CHPGVN. Kết quả của nửa thế kỷ hoạt động trong chông gai, trong sự
khủng bố chèn ép nặng nề, nhưng cơ sở Phật giáo đã lan đến hạ tầng thôn xóm;
giáo lý nhà Phật không còn quanh quẩn trong các tự viện mà đã quảng bá sâu rộng
vào các tầng lớp dân chúng; phạm vi giáo dục Phật giáo không còn đóng khung ở bậc
lão thành mà đã đi vào thanh thiếu nhi Phật tử; nào trường Bồ đề; nào các Phật
học viện, rồi đến Đại Học Vạn Hạnh…Song song với công cuộc phát huy đời sống
tâm linh, lãnh vực hoạt động từ thiện xã hội như: cô nhi viện, ký nhi viện…đã
gây nhiều ảnh hưởng lớn lao trên toàn quốc.
Với những thành quả lớn lao
như thế, chúng ta không thể không nghĩ đến công đức của các vị Tiền Bối. Do đó
Hội Đồng Viện Hóa Đạo đã quyết định tổ chức hằng năm lễ kỷ niệm: “Ghi ân những
bậc Tiền Bối hữu công trong phong trào CHPGVN” vào ngày Phật thành đạo (mùng 8
tháng chạp) và bắt đầu từ PL 2513 năm kỷ dậu (1970) tại trụ sở tạm chùa Ấn
Quang Sài gòn.
Phương
danh các bậc Tiền Bối Hữu Công trong phong trào CHPGVN
Ở miền Bắc:
a.
Bên tăng: HT.
Thanh Hạnh, Tổ Vĩnh Nghiêm, HT. Tuệ Tạng, HT. Mật Ứng, HT. Thanh Ất, HT. Trung
Thứ, HT. Doãn Hà, HT. trụ trì chùa Hương Tích, HT. Quang Nghiễm, HT. trụ trì
chùa Phúc Thỉnh, HT. trụ trì chùa Quế Phương, HT. trụ trì chùa Bộ La, HT.Thanh
Triệu, HT. Tố Liên, HT. Trí Hải, TT. Giải Ngạn, TT.Tuệ Chiếu…
b.
Bên cư sĩ: Cụ Hoàng Trọng Phu, Cụ Nguyễn
Năng Quốc, Cụ Thiều Chữu, Cụ Bùi Kỹ, Cụ Dương Bá Trạc, Cụ Trần Trọng Kim, Cụ
Nguyễn Can Mộng, Cụ Nguyễn Trọng Thuật, Cụ Phan Kế Bính, Cụ Lê Toại, Cụ Bùi Thiện
Căn…
Ở miền Trung:
a.
Bên Tăng: HT. Phước Huệ, HT. Phổ Huệ,
HT. Tường Vân, HT. Thiền Tôn, HT. Tây Thiên, HT. Trúc Lâm, HT. Từ Hiếu, HT. Trà
Am… và các thượng tọa Mật Khế, Quy Thiện, Đôn Hậu, Mật Nguyện, Mật Hiển, Trí Thủ,
Mật Thể…
b.
Bên cư sĩ: Bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám,
Cụ Trí Độ, Cụ Hoàng Mộng Lương, Cụ Chơn An Lê Văn Định, Cụ Tôn Thất Tùng, Cụ
Nguyễn Khoa Toàn, Cụ Võ Đình Dung… và các bà Cao Xuân San (Diệu Không), Bà Ưng
Úy (Diệu Huệ)…
Ở miền Nam:
a.
Bên tăng: HT. Khánh Hòa, HT. Huệ
Quang, HT. Trí Thiền, HT. Từ Phong, HT. Chánh Quả, HT. Chí Thiền, HT. An Lạc, HT. Nguyễn Chánh Tâm, HT. Tâm Quang,
HT. Huệ Thành, HT. Toàn Chơn, HT. Diệu Pháp, Yết Ma Nguyễn Văn Chức, HT. Thiện
Tâm…
b.
Bên cư sĩ: Ô. Trần Nguyên Chấm, Ô. Huỳnh
Văn Quyền, Ô. Phạm Ngọc Vinh, Ô. Lê Văn
Phổ, Ô. Nguyễn Văn Cần, Ô. Trần Văn Khuê, Ô. Nguyễn Văn Nhơn…
Qua
sơ lược một số sử liệu vừa nêu, cho chúng ta thấy rằng CHPGVN là một truyền thống
quý báu, yêu nước, mến đạo của dân tộc ta; chứ không phải như một số ít người
thiển cận hoặc cố tình xuyên tạc cho rằng: “Hô hào CHPG lúc nầy là không đúng
lúc, làm mất đoàn kết, do nhóm người quá khích, trẻ người non dạ ngựa con háu
đá…”
Viết
đến đây, thì có anh Tâm Thành một người bạn đồng hương đến thăm chúc Tết ngày mồng
3. Tâm Thành là Phật tử thuần thành, anh và tôi đã từng sinh hoạt trong Gia
Đình Phật Tử Chánh Thiện tại Quảng Trị từ 1954. Năm nay Tâm Thành đã 75 nhỏ hơn
tôi 4 tuổi. Anh là một trong những người ưa tranh luận về giáo lý nhà Phật và đạo
Thiên Chúa. Sau nhiều năm xa cách, hôm nay gặp lại nhau trong dịp ngày Tết
chúng tôi rất vui mừng và hào hứng nhắc lại những bước thăng trầm của đất nước
mà anh em chúng tôi cũng là chứng nhân lịch sử.Vừa uống trà vừa mạn đàm thế sự.
Bỗng Tâm Thành chuyển qua vấn đề Phật giáo, anh hỏi: Anh Tâm Hòa thấy hiện tình
Phật giáo nước nhà như thế nào?
- Bình
thường thôi, mọi chuyện đều do nhân duyên sinh, thời nào và ở đâu cũng vậy: có
sinh thì có diệt, có tụ thì có tán, có thịnh thì có suy, có người xây dựng thì có
kẻ phá hoại. Ngay thời Phật còn tại thế cũng vậy, có Phú Lâu Na thì cũng có Đề
Bà Đạt Đa, ở Việt Nam mình cũng vậy có Thạch Sanh thì cũng có Lý Thông…Tất cả mọi
chuyện đều do nhân duyên sinh: cái nầy có thì cái kia có, cái nầy sinh thì cái
kia sinh, cái nầy diệt thì cái kia diệt. Thời Lý Trần Phật giáo thịnh là nhờ có
minh quân, trung thần hết lòng lo cho dân cho nước, thì “đạo pháp huy hoàng, chúng Tăng thanh tịnh”; thời Phật giáo suy là
vì đất nước bị lệ thuộc vào ngoại bang gặp hôn quân, bạo chúa, nịnh thần ăn
chơi trác táng, làm cho đất nước suy vi dân tình đói khổ, thì “đạo pháp lu mờ,
tăng đồ khiếm tu thất học”, sĩ khí nhà Nho thì ươn hèn như gà gặp cáo “Sĩ khí rụt rè gà phải cáo”, chính quyền thì tham quan ô lại hoang
dâm trụy lạc, đến nỗi làm cho nhà thơ yêu nước, Cụ Nguyễn Đình Chiểu phải la
lên: “…ghét cay ghét đắng ghét vào tới
tâm, ghét đời Kiệt Trụ đa dâm, để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.
Cụ dùng văn thơ để tồi tà hiển chánh: chở bao nhiêu đạo
thuyền không khẳm, đâm mấy thằng gian bút chẳng tà, Cụ xác định: “Thà đui mà giữ đạo nhà, còn hơn có mắt ông cha không thờ” và Cụ ưu ái khuyên bảo lớp thanh niên nam nữ: “Trai thì trung hiếu làm đầu, gái thì tiết hạnh là câu trau mình.” Đứng trước tình hình đất nước
ngửa nghiêng như vậy, quốc gia hưng vong thất phu hữu trách, huống hồ là Tăng Ni
phật tử ai nỡ điềm nhiên tọa thị. Tất nhiên, họ phải hô hào vận động CHPG.
Đúng rồi, Tâm Thành nói: “Tôi còn nhớ vào những
năm 1956-1963 gia đình o Liêm, người họ tôi sống ở La Văng Thượng, bị người ta
dụ cải đạo một cách tinh vi: dượng Hoán, chồng o Liêm bị bắt vì người ta chụp
mũ là VC nằm vùng. Rồi có người đến gợi ý o Liêm nên lên nhà thờ xin Cha (linh
mục) bảo lãnh cho dượng về, khi o đến xin Cha bảo lãnh thì Cha rất tử tế, thân
mật bảo: “gia đình con phải theo Chúa,
Cha mới có điều kiện để bảo lãnh.” Thế là gia đình o Liêm phải theo đạo
Chúa! -Tôi rất thông cảm, lúc bấy giờ không phải một mình gia đình o Liêm, mà
có rất nhiều gia đình cùng chịu hoàn cảnh như vậy. Đó là chuyện cũ, bây giờ năm
mới chúng ta nên nói chuyện mới đi. Đồng ý, nhưng chuyện mới gì đây? Hôm mồng 1
Tết có khai bút mấy câu thơ chúc tết, bây giờ Tâm Hòa xin đọc để chúc tết Tâm
Thành và bà con Phật tử xa gần được chưa? Hoan nghinh! Lắng nghe, tôi xin đọc
đây:
“Mỗi năm Tết đến một lần,
Bà con Phật tử xa gần chúc
nhau.
Chúc nhau trăm tuổi sống lâu,
An khang thịnh vượng, sang
giàu khắp nơi.
Thân tâm an lạc thảnh thơi,
Giáo lý nhà Phật rạng ngời năm
châu.”
Còn
nữa, vừa rồi tôi có nhận được bức Thư Ngỏ của ban vận động, kêu gọi viết bài
cho Tủ sách Tôn giáo nhằm CHPGVN. Nội dung bức thư ý tưởng chân thành lời lẽ rất
thiết tha mời gọi chư Tôn đức Tăng Ni, Phật tử và những ai quan tâm dến sự tồn
vong của dân tộc và đạo pháp hãy tích cực đóng góp cho Tủ sách sớm thành tựu.
Sau khi trao đổi và phân tích, Tâm Thành nhiệt tình hưởng ứng và hứa sẽ viết
bài đóng góp cho tủ sách.
Mục
đích bài viết nầy, chúng tôi muốn thỉnh cầu với chư Tôn giáo phẩm, cùng các Nhà
hữu trách đối với dân tộc và đạo pháp, cần khẩn trương dẹp bỏ những dị biệt vụn
vặt nếu có, nên đặt quyền lợi Quốc gia dân tộc lên trên hết, cùng nhau đoàn kết
cố gắng phục hưng và phát huy truyền thống lý tưởng đạo đức cao đẹp của Tổ tiên
ta đã dày công xây dựng. Mà cụ thể là:
1.
Tu chỉnh Hiến chương của Giáo Hội. Quy định tưổi và hạn kỳ phục vụ của
các nhân sự,
2.
Trẻ trung và thanh tịnh hóa nhân sự Giáo Hội,
3.
Đặt nhân sự đúng đối tượng,
4.
Đào tạo và thành lập giảng sư đoàn lưu hành diễn giảng khắp nơi để tín đồ
Phật giáo hiểu rõ ý nghĩa lời Phật dạy. Và
phòng chống cải đạo,
5.
Tổ chức thi giáo lý cho chư Tăng Ni dưới 40 tuổi để bổ túc kiến thức nội
điển nếu cần,
6.
Phổ biến giáo lý đến từng lớp quần chúng bình dân bằng băng dĩa, truyện,
sách báo phổ thông,
7.
Lập tủ sách Phật học ứng dụng trong các chùa huyện, xả và thôn xóm,
8.
Về nghi lễ, nên thống nhất một bộ nghi thức bằng chữ Việt, ngắn gọn cho
hàng cư sĩ tại gia.
9.
Phục hoạt các Gia Đình Phật Tử,
các đoàn Thanh niên, Sinh viên, Học sinh Phật giáo để tránh nạn tre già mà măng
không mọc, hoặc mọc xiên xẹo,
10.
Giúp đỡ các người neo đơn, hoàn cảnh khó khăn, nhất là trong các vùng
sâu, vùng xa đô thị,
Chúng
tôi nghĩ rằng nghi lễ, tụng kinh niệm Phật, thuyết pháp đàm kinh, mõ sớm chuông
chiều…không ngoài mục đích cảnh giác, tỉnh thức những ai đang mê say trong biển
khổ lợi danh, trong vực sâu tình ái, hãy mau tỉnh thức cơn mê, quay về với trí
giác để có cuộc sống hạnh phúc đích thực. Đúng như mục đích của cặp câu đối mà
chúng ta thường thấy in khắc ở các chùa:
“Mộ cổ thần chung, cảnh giác
ái hà trần thượng khách,
Đàm kinh thuyết pháp, hoán tỉnh
khổ hải mộng trung nhân.”
Hoặc
như bài thơ “Sống” của người có tuệ giác dưới đây:
“Sống không giận, không hờn,
không oán trách
Sống mỉm cười, với thử thách
chông gai
Sống vươn lên, theo kịp ánh
ban mai
Sống chan hòa, với những người
chung sống
Sống là động, nhưng lòng luôn
bất động
Sống là thương, nhưng lòng chẳng
vấn vương
Sống yên vui, danh lợi mãi coi
thường
Tâm bất biến, giữa dòng đời vạn
biến.”
Sách
Nho có câu: “lương dược khổ khẩu lợi ư bịnh,
trung ngôn nghịch nhĩ lợi ư hành”. Việt Nam mình nói: “Thuốc đắng chết tật, nói thật mất
lòng”. Trong bài viết nầy, ngôn từ có chỗ nào vụng về nghe chối tai, kính mong
chư vị niệm tình tha thứ cho. Xin chân thành cám ơn.