Khi đọc nghe trên đài, báo, những tin như “ngư dân cắt hàng tấn dây cáp quang dưới biển để bán”, hay “những cách làm ăn làm nghèo đất nước”, chúng ta ắt tự hỏi thế nào là lòng yêu nước, lòng yêu nước cấu thành bằng những yếu tố gì , và làm sao phát triển lòng yêu nước. Bởi vì chắc chắn lòng yêu nước là một thành tố làm nên nhân cách con người và một đất nước chỉ giàu mạnh phát triển cao khi lòng yêu nước của dân chúng cũng giàu mạnh phát triển cao.
Lòng yêu nước là gì?
Thưở xa xưa, một dân tộc ( và có lẽ cho cả chung nhân loại) bắt đầu từ một gia đình, một bộ tộc họ hàng.Với người Việt, gia đình đó có cha là Lạc Long Quân, mẹ là Âu Cơ. Dần dần gia đình đó mở rộng ra về mặt không gian lên núi, xuống biển, tiến vào những vùng đất trống), về mặt truyền thống (sinh sản nhiều thêm, có một phần lai với giống người khác), và về mặt thời gian (có chung nhau một lịch sử, những hoàn cảnh đã từng chung sống). Cộng đồng cùng một huyết thống, cùng một cách sống, cùng một ngôn ngữ, cùng một sự “chia ngọt sẻ bùi” qua lịch sử, dần dần lập thành một quốc gia. Quốc gia còn tồn tại và phát triển cho đến ngày nay là một quốc gia hiện đại.
Ở đây chúng ta chỉ nói đến một ý niệm dòng tộc họ hàng. Tất cả những người Việt chúng ta đều là bà con họ hàng với nhau, dù có lai tạp, dù cách xa bao nhiêu đời cũng vẫn cùng một gia phả, do đó có danh từ “đồng bào”. Thế nhưng trải qua thời gian, trải qua sự cá nhân hóa, chuyên nghiệp hóa và phức tạp hóa (đó cũng là một phần tất yếu của quá trình tiến hóa của toàn bộ vũ trụ) rất thường chúng ta quên bẳng điều này. Có lẽ chỉ những người sống ở ngoại quốc khi gặp một người Việt, họ dễ thấy tình cảm họ hàng, đồng bào. Trong đời sống hàng ngày, chúng ta hầu như quên bẳng “đối tác” kia là họ hàng xa, là đồng bào của mình. Người công chức thì quên người dân đến xin giấy tờ này là anh chị em bà con xa của mình. Ngược lại người đến xin giấy tờ thì quên người ký tên đóng dấu kia là đồng bào của mình. Cải cách hành chính trở nên khó khăn, không phải chỉ vì yếu tồ pháp luật rườm rà và trình độ nghiệp vụ, mà còn là yếu tố tâm lý, thấy người kia là đối tác, thậm chí đối thủ, không thấy người kia là đồng bào. Và nếu công việc không được giải quyết mau lẹ thì sự thiệt hại không chỉ dành cho một người hay hai người, mà cả gia đình và cả xã hội. Đó là thiếu lòng yêu nước.
Chính tính chuyên nghiệp, tính bộ phận dẫn đến tính cục bộ đã làm
giảm lòng yêu nước. Nhưng không vì thế mà bỏ tính chuyên nghiệp. Tính
chuyên nghiệp cần có một đối tượng, cần một tính phỏ quát để cân bằng.
một trong những đối tượng, một yếu tố phổ quát hóa mà Phật giáo đề nghị là từ bi – hỷ xả. Ở đây chúng ta đang chỉ nói đến lòng yêu nước. Lòng yêu nước là đối tượng với chủ nghĩa vị kỷ, chủ nghĩa cá nhân cực đoan, chủ nghĩa cục bộ địa phương.
Chúng ta
đã có những danh từ chính trị nhưng mang những tình cảm gần gũi. Chẳng
hạn “nhà nước” dùng cùng nghĩa với “chính phủ, chính quyền”. Với phương
Tây, trong tiếng Anh, tiếng Pháp, chính phù (govement, gouvemment) do
động từ (to govem, gouvemer), có nghĩa là cai trị , cầm quyền hoặc nói
nhẹ hơn, quản trị, điều hành. Còn trong chữ nhà nước ta đang dùng, dù giải thích cách nào thì cũng có chữ nhà, mà chữ nhà là một chữ thân thương, ngoài ý nghĩa là cái nhà, nhà là gia đình, chồng hay vợ (nhà tôi), quê nhà…Phải chăng trong một danh từ để chỉ chính phủ, chính quyền, chúng ta cũng đặt vào đó tình cảm yêu nhà, yêu nước? vì chữ ngược lại là “nước nhà”, cũng có nghĩa là quốc gia, đất nước).
Những thành tố của lòng yêu nước.
Trong thời hiện tại, có 3 yếu tố chính để phát huy lòng yêu nước thêm sáng suốt, mạnh mẽ và hiệu quả.
1. Dân trí: Thí dụ ở trên, lấy cắp hàng cây số dây cáp quang hẵn là thiếu dân trí, vì họ không ước lượng được sự thiệt hại to lớn cho đất nước như thế nào để chỉ có vài chục triệu đồng, trong khi một lần ra biển đánh cá phải hơn con số đó nhiều. Dân trí ta còn thấp, ít người đọc báo, đọc sách , ít biết tình hình chính trị, kinh tế thế giới như thế nào, tương quan chúng ta như thế nào với một thế giới toàn cầu hóa, khoa học thế giới hiện đang ở trình độ nào, văn học nghệ thuật thế giới hiện đang ra sao, có nên nhập những thứ mà với họ cũng cho là thấp kém vào đây hay không.
IQ chỉ số thông minh là một phần của dân trí. Trong một thế giới toàn cầu hóa, các ngành học thuật đều tương thông lẫn nhau, cho nên trí tuệ của con người cũng phải đa diện, như thuật ngữ gọi là “liên ngành”, ngoài sự sâu rộng của kiến thức, còn phải biết phán đoán, xử lý, chọn lựa phương án, nhận định và tìm ra những ý tưởng mới.
Một cách đơn giản, chúng ta có thể rất yêu nước, nhưng nếu không dân trí, lấy gì để phụng sự đất nước, để giải quyết những vấn đề ngày càng tăng trong thế giới hiện đại?
2. Dân tình. Những xúc cảm, tình cảm cao đẹp, chỉ số xúc cảm EQ là một phần của dân tình. Lòng yêu nước chỉ có khi có những tình cảm cao đẹp, chắc hẳn nó không đứng một mình. Nếu người ta không yêu bản thân, yêu gia đình, yêu bạn bè, thiên nhiên, núi sông, con người, người ta cũng không thể yêu đất nước. Những xúc cảm cao cả, những lý tưởng cao cả, tình thương cho con người, sự hy sinh vị tha vô ngã, niềm đam mê cái Chân Thiện Mỹ là nền tảng cho một lòng yêu nước phát triển. Chớ tưởng tình cảm không liên hệ gì đến kinh tế xã hội. Chỉ nghĩ đến người khác một chút, chỉ cần thương yau6 đất nước một chút, dân trong thành phố lớn như TP.HCM trong khi đi ăn uống, giải trí, du lịch, mua sắm trong hai ngày nghỉ cuối tuần, chỉ cần tiết kiệm vài ngàn, chúng ta sẽ có ít nhất
vài tỷ đủ để thay đổi cuộc sống khốn khổ của một làng miền xa, thiếu
giếng, thiếu nước, thiếu đường đi, thiếu sách vở, thiếu radio, TV…
Nhật Bản và Hàn Quốc sau chiến tranh hoàn toàn tan nát, nhưng cả hai chỉ cần 30 năm (bằng thời gian có hòa bình cho đến nay ở nước ta) đã có mặt trong danh sách 10 nước đứng đầu thế giới về kinh tế. trong cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997, trong khi có nước như Thái Lan phải tuân thủ những quy định của Quỹ tiền tệ quốc tế, thì Hàn Quốc kêu gọi dân chúng tiết kiệm “thắt lưng buộc bụng” và họ đã tự lực vượt qua khủng hoảng. Đó là sức mạnh của dân tình, mà chúng ta hay gọi là đại đoàn kết.
3. Dân chủ. Dân chủ là khái niệm quen thuộc của thế giới hiện đại. Cũng thường nghe nói mục tiêu của chúng ta là một xã hội “công bằng, dân chủ, văn minh”. Nhưng ở đây chúng ta không giới hạn từ ngữ dân chủ trong phạm vi chính trị, vì gì đi nữa thì phạm vi ấy vẫn chưa phải là toàn bộ đời sống. Dân chủ đối lập với quân chủ, mà bây giờ làm gì còn chế độ quân chủ nữa. Chúng ta xem xét khái niệm này ở mức độ rộng hơn, tức là triết học.
Sự sống trên trái đất bắt đầu từ các đơn bào, và sự sống sơ khai đó khoa học quan sát thấy là có tính tự phát, tự chủ, tự tổ chức, tự trao đổi với môi trường để sống, tự tiến hóa, tự sinh sản…Con người là đại diện cho sự sống ở cấp độ cao nhất, phức tạp nhất, cho nên ngoài những tính chất trên, nó còn có những tính chất cao cấp hơn, chẳng hạn tính chọn lựa, quyết định, , tính trách nhiệm, tính sáng tạo, và sự phát triển khá đầy đủ các lĩnh vực ý chí, tình cảm, trí năng…Vậy thì mục đích tiến hóa của con người là phát triển những tính chất ấy đến mức hoàn thiện nhất, và giá trị con người cũng được đánh giá theo mức độ phát triển của các tính chất, các khả năng này. Chưa phát triển các tính chất, các khả năng này để thành một con người đúng nghĩa thì dân chủ chỉ là một danh từ suông, không biết sử dụng dân chủ như thế nào và sử dụng như thế nào cho lợi mình, lợi người, cho xã hội tiến bộ. Chẳng lẽ dân chủ là chạy ẩu, , vượt đèn đỏ, cứ thảy rác ra đường, tha hồ nhậu nhẹt, sống mà chẳng lợi ích gì cho đời? Dân chủ đòi hỏi sự tự chủ, tự tổ chức, tự trao đổi, tự tương giao, tự tiến hóa ở mức độ căn bản trung bình chung của một con người.
Khi một người đạt đến mức tự chủ, tự giác, tự tổ chức , tự trao đổi với môi trường xã hội, tự tiến hóa…người đó tự động và đương nhiên có dân chủ. Nhưng con người không sống một mình, nó sống với xã hội. Thế nên xã hội phải tạo cho cá nhân môi trường để phát triển những tính chất trên, để hoàn thành bổn phận và sứ mạng làm người của nó. Một xã hội tạo được một môi trường cho con người phát triển, tiến hóa là một xã hội dân chủ. Nếu mở rộng khái niệm như vậy, thì lòng yêu nước rất cần những yếu tố trên vì những yếu tố đó đều dẫn tới trách nhiệm cá nhân đối với xã hội và đất nước. Hơn nữa, đó không phải là một cái gì do người cầm quyền hay ai đó khoác vào cho con người, mà trách nhiệm ấy, bổn phận ấy là cái tất yếu khi con người đã đủ trưởng thành, đã đủ tiến hóa.
Những điều ở trên không mâu thuẩn với khái niệm một xã hội lý tưởng của Phật giáo: tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tức là những tiềm năng chân thiện mỹ ở nơi mình nên xã hội cần phải là môi trường tốt đẹp cho sự phát triển những tiềm năng ấy. Nếu dùng chữ “làm Phật”(tác Phật) của người xưa để chỉ sự tiến hóa đến toàn hảo, đến giác ngộ, thì chúng ta có thể nói rằng con người không chỉ cần có “quyền làm người”, mà thêm nữa còn có “quyền làm Phật”.
Trong khi đi tìm ý nghĩa của danh từ dân chủ của phương Tây, chúng ta gặp thấy ý nghĩa của dân chủ là “lợi ích cho bản thân mình, đồng thời lợi ích cho những người khác”. Đây cũng là mọtột khái niệm cốt lõi của Đại thừa Phật giáo. Hơn nữa, với Phật giáo, dân chủ không chỉ là sự công bằng, bình đẳng trong quyền được sống, công bằng bình đẳng trong quyền và cơ hội được phát triển tất cả trong tiềm năng tốt đẹp trong tính người, mà hơn nữa còn là sự quan tâm chăm lo, giúp đỡ những người bẩm sinh là thua thiệt, yếu đuối, dù có đưa ra cơ hội bình đẳng cũng không nắm lấy được. Đây cũng là một khái niệm cốt lõi của Đại thừa, rất cần thiết để tạo dựng một xã hội bình đẳng mà hài hòa: lòng Từ bi. Sự quan tâm giúp đỡ này không chỉ nằm trong khái niệm, trong văn chương, mà phải thể hiện thành 8điều luật trong xã hội.
Tổng hợp những yếu tố trên, chúng ta có được những nét chính để tạo dựng một xã hội tốt đẹp, nghĩa là một xã hội thật sự hài hòa và hòa hợp, hướng đến Chân Thiện Mỹ của toàn nhân loại. Đó cũng là viễn tượng tốt đẹp cho lòng yêu nước hướng tới, bởi vì lòng yêu nước không chỉ hướng về quá khứ, mà toàn bộ sức mạnh của nó đặt ở tương lai.
Biết ơn và báo ơn
Tình yêu nào đến mức chín chắn trưởng thành đều phối hợp với những yếu tố khác của tâm thức để bao gồm vào nó sự biết ơn và báo ơn. Từ tình gia đình, tình thầy trò, tình yêu nam nữ cho đến tình yêu đất nước đều như vậy.
Sự sống của thân thể, sự sống giáo dục nên người, sự thành đạt của ta đều nhờ người khác, nói rộng ra là nhờ xã hội và đất nước. Chỉ nói về ngôn ngữ thôi, các nhà khoa học đã nói với những bằng cớ cho thấy một đứa bé đến mươi mấy tuổi mà chưa được tiếp xúc với xã hội, chưa có một ngôn ngữ để sử dụng, nó chỉ ở tình trạng động vật cấp cao, chưa đủ tình cảm vả lý trí để thành một con người. Nó không còn hy vọng trao đổi thông tin để có văn hóa và văn minh. Chỉ một ngôn ngữ để trao đổi và tương giao mà chúng ta gọi là tiếng mẹ đẻ, chúng ta phải biết ơn tổ tiên đến chừng nào.
Các kinh luận Phật giáo thường nói đến bốn ơn: ơn cha mẹ, ơn chúng sanh, ơn đất nước (bao gồm các người đại diện lãnh đạo đất nước), ơn Tam bảo (Phật, thầy, và những phương pháp dẫn dắt chúng ta trên con đường tiến hóa). Nếu kể ra cho hết các ơn thì có lẽ không cùng: ơn thiên nhiên, ơn loài thực vật (nếu trái đất này không có loài thực vật thì loài người cũng không xuất hiện), xa xôi hơn, ơn vũ trụ (những hằng số tạo ra và giữ cho vũ trụ tồn tại chỉ nhích khác đi vài phần triệu thì sẽ không có con người trên trái đất này). Và còn ơn biết bao người: ngừi tốt giúp đõ ta tiến bộ, người thù ghét ta giúp ta thêm nhẫn nhục, khoan dung, thậm chí thương xót, người tốt giup ta ái mộ cái tốt, người xấu giúp ta biết sợ cái xấu…
Thế nên yêu nước phải bao gồm lòng biết ơn và báo ơn đất nước. Chúng ta hãy nhìn lại một bài học lịch sử: Cuộc chiến tranh thắng lợi trong việc bảo vệ đất nước trước quân Nguyên, Mông vào đời Trần, từ vua Trần Thái Tông qua Trần Thánh Tông, cho đến Trần Nhân Tông.Chúng ta cần hiểu tâm trạng của các vua Trần; vị nào cũng là Phật tử thuần thành,. vị nào cuối đời cũng ở chùa, thành ra trước việc giết (giới sát), dù là để bảo vệ tổ quốc, họ phân vân, khó khăn khi quyết định. Trần Nhân Tông gửi thư đến Thoát Hoan xin lui quân, nhắc lại lời nói của Hốt Tất Liệt không đem quân vào nước ta. Chẳng hạn vua Thánh Tông tỏ ý muốn hàng, Trần Hưng Đạo đã trả lời: “Xin bệ hạ chém đầu tôi rồi hãy hàng”. Chúng ta đều biết số phận một vị vua đầu hàng sẽ thế nào, hoặc bị giết ngay hoặc bị lưu đày và chết sớm ở nước bên kia. Đầu hàng thì chỉ mình vua chịu, còn nhân dân sẽ được yên ổn. Chẳng hạn vua Trần Nhân Tông mở Hội nghị Diên Hồng hỏi ý kiến các phụ lão đại diện cho toàn dân rồi mới quyết định
đánh. Trước thủ cấp tướng giặc Toa Đô, khi kinh thành Thăng Long bị
tàn phá và còn nằm trong tay giặc, vua Nhân Tông “thương hại nói :Người
làm tôi phải như thế này. Rồi cởi áo Ngự đắp lên cho đem chôn”. Xong
chiến tranh, tất cả tù binh được thả về. Cái rương chứa tài liệu những ai đã đầu hàng,
thậm chí những chứng cứ phản bội tổ quốc theo giặc, vua cũng cho đốt mà
không xem. Khi nói về chiến đấu và chiến thắng, Trần Quang Khải, Trần Nhân Tông
chỉ nói đến“giang sơn”, “xã tắc”, ‘sơn hà”, còn Trần Hưng Đạo (Hịch
tướng sĩ) có nói đến triều đình nhà Trần, nhưng nhiều nhất là đất nước,
“bỏ mình vì nước”, “quốc sĩ”, “quân quốc”, “xã tắc”, “tổ tiên”. Ví dụ
hai câu thơ của Nhân Tông khi chiến thắng trở về Thăng Long: “Xã tắc hai phen phiền ngựa đá /Non sông nghìn thuở vững âu vàng” (Xã tắc lưỡng hồi lao thách mã / Sơn hà kim cổ điện kim âu). Hoàn toàn không có cái tôi, công lao của tôi, công lao của nhà Trần tôi mà là công lao của tất cả, từ hữu tình đến vô tình, kể cả con ngựa bằng đá (lao thạch mã). Do đó mà đất nước, non sông bền vững muôn đời.
Sự vĩ đại của một thời đại mà sử gia Ngô Sĩ Liên xem “vua là thánh, tôi là thần”, không phải là họ tham đánh giặc, không phải là chỉ lo bảo vệ
vương triều. Sự vĩ đại của họ không phải là chiến thắng đến 3 lần đạo
quân bách chiến, bách thắng từ Á sang Âu, nhưng họ còn vĩ đại hơn, vì
chiến thắng ấy là sự hy sinh bản thân họ (như đã nói, rất phân vân khi phải chọn lựa chiến tranh), vì đó là sự báo ơn đất nước.
Nhớ lại sơ lược lịch sử nhà Trần, chúng ta thấy rõ thêm một điều: lịch sử không phải là cuốn sách ghi lại những điều đã qua, đã mất hẳn. Lịch sử còn được sống lại bằng sự tham dự của ý thức và tình cảm của người đương thời. Ai trong chúng ta cũng có một cái gì của người xưa, của các vua Hùng, của các vua đời Lý, của Nguyễn Huệ Quan Trung, của những vinh quang và khổ nhục, của những thành công và những sai lầm của đất nước. Sự tham dự bằng ý thức, bằng hồi tưởng, bằng đồng hóa này làm nên một phần của lòng yêu nước.
Nhưng chúng ta không phải là những người vĩ đại, chúng ta là người bình thường, có phải chúng ta không cần có lòng yêu nước, và không thể báo ơn trước? Thật đơn giản và dễ dàng. Không vứt rác ra ngoài đường là yêu nước và báo ơn nước. Không vượt đèn đỏ, bớt nói thách khi bán hàng, làm hàng cho thật tốt hơn thay vì làm hàng giả, hàng xấu. Không chặt cây khi không cần thiết mà trồng thêm cây, học hành làm việc hôm nay tốt hơn hôm qua…là yêu nước và báo ơn nước. Có câu chuyện trên báo: Trời mưa. Trong hiên phố là hai cô gái ăn mặc đẹp đẽ vừa nói chuyện vui vẻ
vừa uống bịch nước. Uống xong hai cô vứt hai bịch nước ra đường. Bên
kia đường, một anh Tây đang trú mưa đầu trần chạy ra dưới trời mưa lượm
hai bịch nylon bỏ vào thùng rác rồi chạy vào lại dưới hiên.
Có thể tóm gọn rằng: giá trị mỗi người chúng ta tăng lên mỗi ngày, đó là giá trị đất nước tăng lên mỗi ngày. Thế thì biết làm cho giá trị của mỗi người chúng ta tăng lên mỗi ngày, đó là lòng yêu nước. Hoặc lạm dụng một thuật ngữ của Phật giáo, đó là “giới luật”của lòng yêu nước.
Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo số 35 | Thư Viện Hoa Sen