của Tiến sĩ
Bùi Minh Đạo, Viện Phát triển bền vững vùng Tây Nguyên, thuộc Viện Khoa học Xã
hội Việt Nam, nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, xuất bản năm 2012.
Qua công trình này
chúng ta sẽ thấy:
-
Phật giáo đã trở thành tôn giáo thiểu số
ở Tây Nguyên, đứng hàng thứ 2, thậm chí có tỉnh, Phật giáo là tôn giáo đã là
tôn giáo thiểu số đứng hàng thứ 3 (sau đạo Thiên Chúa La Mã và Tin Lành).
-
Số tín đồ Phật giáo người dân tộc thiểu
số tuy có nhưng không đáng kể.
-
Phật giáo có mặt ở Tây Nguyên rất muộn
màng, vào đầu thế kỷ XX, sau 2 tôn giáo đến từ phương Tây là Thiên chúa La Mã
và Tin Lành.
-
Phật giáo ở Tây Nguyên chỉ giới hạn chủ
yếu trong người Kinh.
-
Đạo Thiên chúa La Mã và Tin Lành có thiết
chế ảnh hưởng quan trọng đến đời sống người dân tộc thiểu số, trong khi điều
này không ghi nhận ở Phật giáo.
-
Vấn đề tôn giáo (tất nhiên bao gồm hiện
trạng thiểu số hóa Phật giáo, đặc biệt đối với người dân tộc thiểu số) là một vấn
đề chính trị xã hội quan trọng ở Tây Nguyên.
Dưới đây là một số
trích đoạn trong công trình nghiên cứu đã nói ở trên:
Từ trang 76:
“Cơ cấu tôn giáo
Các
tôn giáo
Ở
Tây Nguyên hiện có 4 tôn giáo chính là Phật giáo, Công giáo, Tin Lành và Cao
Đài. Năm 2009, trong tổng số 5.115.135 người ở Tây Nguyên, có 570.274 người
theo đạo Phật (8%), 800.693 người theo Công giáo (16,1%), 362.689 người theo
Tin Lành (7,9%), 20.105 người theo Cao Đài (0,003%), 1.119 người theo các tôn
giáo khác (0,0002%) và 3.047.714 người không theo tôn giáo nào (59,5%). Trong 4
tôn giáo, Công giáo có mặt sớm nhất, giữa thế kỷ XIX, ở các dân tộc thiểu số tại
chỗ, tiếp đến là Tin Lành ở các dân tộc thiểu số tại chổ và Phật giáo ở người
Kinh vào đầu thế kỷ XX và đạo Cao Đài ở người Kinh vào giữa thế kỷ XX.
Như
vậy, có khoảng gần 40% dân số Tây Nguyên đang theo các tôn giáo khác nhau, đông
nhất là Công giáo, tiếp đến là đạo Phật, đạo Tin Lành và đạo Cao Đài, trong đó,
đáng chú ý là đạo Tin Lành với 362.689 giáo dân, chiếm gần 50% của 734.168 giáo
dân Tin Lành toàn quốc.
Cơ
cấu tôn giáo chia theo nhóm dân tộc
Trong
4 tôn giáo ở Tây Nguyên, đạo Cao Đài chỉ có ở dân tộc Kinh với số lượng tín đồ
không đáng kể. Ba tôn giáo còn lại có ở cả dân tộc Kinh lẫn các dân tộc thiểu số
theo những tỷ lệ khác nhau. Cụ thể, trong 570.274 người theo đạo Phật, có 9.594 người dân tộc
thiểu số, chiếm 1,6% người theo đạo Phật, còn lại là người Kinh. Trong 800.683
người theo Công giáo, có 248.039 người dân tộc thiểu số, chiếm 31% người theo
Công giáo, còn lại là người Kinh. Trong 362.689 người theo Tin Lành, có 324.135
người dân tộc thiểu số, chiếm 89,3% người theo Tin Lành, còn lại là người Kinh.
Trong 20.105 người theo Cao Đài, 100% là người Kinh, không có người dận tộc thiểu
số.
Như
thế, trong khi tín đồ dân tộc Kinh chiếm đa số trong Công giáo, Phật giáo và
Cao Đài thì tín đồ các dân tộc thiểu số, đặc biệt dân tộc thiểu số tại chỗ lại
chiếm đa số trong Tin lành. Số lượng tín đồ Tin Lành chiếm 20% dân số các dân tộc
thiểu số và 25% dân số các dân tộc thiểu số tại chỗ. Trong tổng số 324.135 tín
đồ Tin Lành là người dân tộc thiểu số Tây Nguyên, phân bố đông nhất là ở tỉnh Đắc
Lắc 133.693 người, tiếp đó là Gia Lai 76.330 người, Lâm Đồng 65.592 người, Đắc
Nông 37.303 người và Kon Tum 11.217 người (Xem bảng 2).
Do
những lý do lịch sử và chính trị, đạo Tin Lành và tổ chức đạo Tin Lành ở các
buôn làng dân tộc thiểu số tại chỗ đã và đang là vấn đề tôn giáo phức tạp ở Tây Nguyên từ thập niên
90 của thế kỷ XIX đến nay.
Bảng
2. Số lượng tín đồ và tín đồ dân tộc thiểu số thuộc các tôn giáo Tây Nguyên năm
2009
Đơn
vị: người
|
Đắc Lắc
Tổng số Trong
đó DTTS
|
|
Gia Lai
Tổng số Trong
đó DTTS
|
|
Kon Tum
Tổng số Trong
đó DTTS
|
|
Lâm Đồng
Tổng số Trong
đó DTTS
|
|
Đắc Nông
Tổng số Trong
đó DTTS
|
|
Toàn vùng
Tổng số Trong
đó DTTS
|
Tổng dân số
|
1768201
|
539680
|
1291882
|
423228
|
411051
|
224280
|
1171513
|
206526
|
449513
|
441598
|
5.115.135
|
1.535.312
|
TS tín đồ
|
449.107
|
177181
|
259175
|
108237
|
170698
|
94738
|
720247
|
151296
|
155015
|
50316
|
1.753.761
|
581.768
|
Chia ra:
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Công giáo
|
179.138
|
42.663
|
90.767
|
31.064
|
127994
|
78.835
|
313.086
|
82.464
|
89.708
|
13.013
|
800.693
|
248.039
|
Tin Lành
|
147.672
|
133.693
|
77.680
|
76.330
|
14.304
|
11.217
|
80.244
|
65.592
|
42.789
|
37.303
|
362.689
|
324.135
|
Phật giáo
|
117.952
|
825
|
86.891
|
843
|
27.913
|
4.686
|
315.000
|
3.240
|
22.518
|
-
|
570.274
|
9.594
|
Cao Đài
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
20.105
|
0
|
Khác
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
1.119
|
0
|
Nguồn:
Hà Đình Thành. Báo cáo đề tài cấp bộ 2009, trang. 78. DTTS = dân tộc thiểu số
Tin
lành Tây Nguyên có nguồn gốc từ Mỹ và phát triển nhanh ở Tây Nguyên từ sau năm
1954. Tín đồ Tin Lành tăng dần từ 30.000 người năm 1975 lên 40.000 người năm
1990, 220.000 người năm 2000, 300.000 người năm 2005 và 362.689 người năm 2009,
bao gồm nhiều hệ phái khác nhau như Cơ đốc Phục lâm, Ngũ tuần, Cơ đốc truyền
giáo, Bắp tít, liên hữu cơ đốc, Chứng nhân Giê hô va, Trưởng lão, Mennonite,… đặc
biệt là Tin Lành Đề Gar. Trong tổng số 2.489 buôn làng dân tộc thiểu số Tây
Nguyên, khoảng 1.450 buôn làng có người theo đạo Tin Lành, chiếm hơn 50% tổng số
buôn làng. Trừ những buôn làng số lượng người theo đạo ít hoặc xen kẻ vừa theo
Tin Lành, vừa theo Công giáo, số buôn làng có đông người theo đạo Tin Lành vào
khoảng 800 (chiếm 32% tổng số buôn làng). Vào thập niên 80 của thế kỷ XX, tín đồ
Tin Lành chỉ tập trung tại một số dân tộc có dân số đông như Ê Đê, Gia Rai, Cơ
Ho, nay có mặt ở hầu hết các dân tộc thiểu số tại chỗ Tây Nguyên và đang lan rộng
ra các dân tộc tại chỗ vùng Trường Sơn và miền núi các tỉnh duyên hải Nam Trung
Bộ giáp Tây Nguyên. Tin Lành Đề Gar, hệ phái gắn với tổ chức FULRO có trụ sở tại
Mỹ, đã và đang ảnh hưởng tiêu cực đến an ninh chính trị và an ninh quốc phòng
vùng Tây Nguyên. Có lẽ ít nơi nào như Tây Nguyên, tồn tại không ít hộ gia đình
có 3 thứ tín ngưỡng khác nhau. Người già (thế hệ ông, bà) thì tín ngưỡng đa thần
truyền thống; lớp trung niên (bậc cha, mẹ) thì theo đạo Thiên Chúa; lớp thanh
niên, thiếu niên (con, cháu) thì theo đạo Tin Lành. Sự phân hóa về tín ngưỡng
diễn ra trong một thời gian ngắn đã gây ra sự xung đột không chỉ trong mỗi gia
đình mà tỏa ra cả cộng đồng xã hội buôn làng. Theo tài liệu của Ban chỉ đạo Tây
Nguyên, đến giữa năm 2009, các tổ chức FULRO lưu vong ở Mỹ tiếp tục tuyên truyền,
kích động chống phá ta ở Tây Nguyên. Chúng liên kết với một số tổ chức phản động
người Việt biểu tình ở bên ngoài gây thanh thế, kích động đấu tranh đòi nhân
quyền, ráo riết chỉ đạo số bên trong bí mật hoạt động phục hồi tổ chức, xây dựng
lực lượng “Tin lành Đề Gar”, xoáy vào vấn đề đất đai, nghèo đói, tự tôn giáo,
xuyên tạc các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước để kích động bạo loạn.
Số bên trong bị đấu tranh bóc gỡ mạnh, giảm sút về lực lượng nhưng vẫn ngoan cố
hoạt động. Nhiều đối tượng hết hạn tù, dù được giám sát, giáo dục, vẫn tiếp tục
liên lạc với FULRO lưu vong xin chủ trương, kinh phí hoạt động, tuyên truyền
lôi kéo quần chúng, trọng điểm là ở Gia Lai và Đắc Lắc. Sáu tháng đầu năm 2009,
phát hiện “Tin lành Đề Gar” nhen nhóm ở
38 xã, 13 huyện; trọng điểm là: Ia Grai, Chư Pah, Phú Thiện, Ia Pa, Krong Pa (tỉnh Gia Lai), Ea H’
Leo (tỉnh Đắc Lắc). Hầu hết số tham gia “Tin lành Đề Gar” là thân nhân của
FULRO lưu vong, hình thức chủ yếu lén lút, nhỏ lẻ, có sự chỉ đạo từ bên ngoài.
Đáng chú ý là ở một số địa bàn, số đối tượng “Tin lành Đề Gar” tái hoạt động có
chiều hướng tăng, như huyện Chư Sê (Gia Lai) tỷ lệ tái hoạt động khoảng 20%,
huyện Krong Pa (Gia Lai) 18,5%; một số huyện ở Đắc Lắc, những tháng đầu năm
2009 tỷ lệ tái hoạt động 32%. Số có thái độ ngoan cố còn trên 2.800 đối tượng.
Trong năm 2008, phát hiện FULRO và “Tin lành Đề Gar” chỉ đạo 7 đợt biểu tình bạo
loạn với nội dung đòi thả người dân tộc thiểu số bị bắt, đòi tự do tôn giáo và
đòi Tây Nguyên tự trị, trọng điểm là ở hai tỉnh Gia Lai và Đắc Lắc.”
Từ trang 147: “Ở các buôn làng dân tộc thiểu số tại chỗ
theo Công giáo và Tin Lành, xuất hiện và có vai trò quan trọng các thiết chế tổ
chức xã hội của tôn giáo. Như đã trình bày, ở Tây Nguyên có 4 tôn giáo mới,
nhưng ở các dân tộc thiểu số tại chỗ chỉ có giáo dân Công giáo và Tin Lành. Đến
đầu năm 2009, ở các buôn làng dân tộc thiểu số tại chỗ Tây Nguyên có 248.039
tín đồ Công giáo (chiếm 31% tổng số tín đồ công giáo Tây Nguyên và 18% dân số
các dân tộc thiểu số tại chỗ), 324.135 tín đồ Tin Lành (chiếm 89,4% tín đồ Tin
Lành Tây Nguyên và 23,8% dân số các dân tộc thiểu số tại chỗ), tổng số tín đồ
Công giáo và Tin Lành dân tộc thiểu số tại chỗ là 572.174 người, chiếm 42% tổng
dân số dân tộc thiểu số tại chỗ. Tài liệu của Đỗ Quang Hưng cho biết, đến năm
2005, có 1.447 thôn làng dân tộc thiểu số có giáo dân Tin Lành.
Ở
các buôn làng theo Công giáo, mỗi buôn làng biên chế thành một họ đạo, trực thuộc
giáo xứ hoặc nhà thờ trên địa bàn, do một Ban chức việc phụ trách, gồm Ông cau
phụ trách chung và một Ông phó cau giúp việc. Dưới họ đạo là các khu đạo, bao gồm
một nhóm gia đình tín đồ, do các ông biện phụ trách. Tùy theo quy mô nhỏ hay lớn
mà mỗi buôn làng có một đến hai người chú giáo phu làm nhiệm vụ truyền đạo và củng
cố đức tin, giáo lý cho giáo dân. Ngoài ra, giáo dân trong mỗi buôn làng được tổ
chức thành các giáo đoàn như giáo đoàn thanh niên, giáo đoàn phụ nữ, giáo đoàn
người già và giáo đoàn thiếu niên, mỗi giáo đoàn do một trưởng giáo đoàn phụ trách. Mỗi giáo
đoàn có lịch sinh hoạt riêng trong tuần tại nhà thờ. Tổ chức xã hội Công giáo
tuy danh nghĩa hoạt động nhằm mục tiêu thuần túy là duy trì đời sống tôn giáo,
nhưng trong thực tế có ảnh hưởng qua lại đến đời sống kinh tế - xã hội và hoạt
động của các đoàn thể chính trị ở từng buôn làng.
Thực
tế ở buôn Kon Ko Pách cho thấy, do nội dung sinh hoạt của các giáo đoàn Công
giáo phù hợp và đi vào cuộc sống hơn nên thu hút giáo dân hơn và vô hình chung
đã làm cho hoạt động của các đoàn thể chính trị bị xem nhẹ, giảm sút và hoạt động
kém hiệu quả hơn so với ở các buôn làng không theo Công giáo.
Ở
các buôn làng theo Tin Lành, sau Chỉ thị 01/2005 của Chính phủ, mỗi buôn làng
theo Tin Lành biên chế thành một điểm nhóm Tin Lành, do một Ban trị sự đứng đầu,
thành phần bao gồm quản nhiệm điểm nhóm (do một mục sư hay một truyền đạo viên
phụ trách), thư ký và thủ quỹ. Giúp việc cho Ban Trị sự là Ban chấp sự do đại hội
các tín đồ bầu ra. Cùng với đó, tại mỗi buôn làng, giáo dân được tổ chức thành
bốn giáo đoàn thanh niên, phụ nữ, người già và giáo đoàn thiếu niên, mỗi giáo
đoàn do một trưởng giáo đoàn đứng đầu. Mỗi giáo đoàn có lịch sinh hoạt riêng
trong tuần tại nhà sinh hoạt điểm nhóm. Trong 8 thôn làng khảo sát, có hai buôn
làng theo đạo Tin Lành là buôn Kao, xã Ea Kao, thành phố Buôn Ma Thuột và buôn
Plei Sing, xã Ia Piar, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai. Giống như bên Công giáo,
nhưng có phần đậm nét và phức tạp hơn, tổ chức xã hội của Tin Lành tuy danh
nghĩa hoạt động nhằm duy trì đời sống tôn giáo, nhưng trong thực tế có ảnh hưởng
bất lợi đến hoạt động của các tổ chức đoàn thể
”.
Từ trang 162: “Thành phần tôn giáo ở các thôn làng xen cư
dân tộc thiểu số tại chỗ - dân tộc mới đến nhìn chung phức tạp hơn so với các
loại hình thôn làng khác. Nhiều khi trong một thôn làng tồn tại nhiều tôn giáo
khác nhau. Chẳng hạn, tại buôn Kao tồn tại đồng thời ba tôn giáo là Tin Lành của
người Ê Đê, Công giáo của người Kinh và Phật giáo của người Kinh; tại buôn Ma
Am tồn tại đồng thời ba tôn giáo, Tin Lành và Công giáo ở người Chu Ru, đạo Phật
ở người Kinh. Ở bộ phận dân tộc tại chỗ theo tôn giáo mới của các thôn làng
này, tồn tại hệ thống tổ chức tôn giáo bao gồm: ban chức việc, ông biện, trưởng
các giáo đoàn (Công giáo) hay ban quản nhiệm, ban chấp sự, trưởng các giáo đoàn
(Tin Lành)”.
Từ trang 204: “Ở Tây Nguyên hiện có trên 30% dân số theo 4
tôn giáo chính, đông nhất là Công giáo, tiếp theo là Phật giáo, Tin Lành và Cao
Đài. Tỷ lệ giáo dân dân tộc thiểu số trong tổng số giáo dân các tôn giáo là
khác nhau: 1,6% trong đạo Phật, 31% trong đạo Công giáo, 89,3% trong đạo Tin
Lành và 0% trong đạo Cao Đài, cho thấy, trong khi tín đồ dân tộc Kinh chiếm đa
số trong Công giáo, Phật giáo và Cao Đài thì tín đồ các dân tộc thiểu số lại
chiếm đa số trong Tin Lành. Số lượng tín đồ Tin Lành chiếm khoảng 20% tổng dân
số các dân tộc thiểu số và 25% tổng dân số các dân tộc thiểu số tại chỗ. Tính
phức tạp của tôn giáo Tây Nguyên với sự hiện diện của hệ phái “Tin lành Đề Gar”
ở các dân tộc thiểu số tại chỗ đang là thách thức đặt ra, ảnh hưởng đến phát
triển bền vững Tây Nguyên.
Do
những nguyên nhân lịch sử và xã hội, Tin Lành Tây Nguyên đã và đang diễn biến
phức tạp, với sự tồn tại của bộ phận “Tin lành Đề Gar” mà bản chất là phản động,
lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo để âm mưu chống phá cách mạng, chia rẽ đoàn
kết dân tộc. Hoạt động của hệ thống thiết chế tổ chức Tin Lành gồm Ban Trị sự,
Ban chấp sự, trưởng các giáo đoàn cùng với sinh hoạt của các giáo đoàn thanh
niên, phụ nữ, người già và thiếu niên đã tác động đến hoạt động của tổ chức xã
hội mới, vô hình chung dẫn đến tình trạng hai chính quyền ở các thôn làng theo
Tin Lành. Ở một số buôn làng dân tộc thiểu số tình trạng sinh hoạt của các giáo
đoàn thu hút và lôi cuốn người dân nhiều hơn so với sinh hoạt của các tổ chức
đoàn thể chính trị, từ đó, ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả hoạt động của các tổ
chức xã hội mới.
Những
mặt trái trong mối quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên đã ít nhiều tác động tiêu cực đến
sự ổn định và phát triển của vùng đất Tây Nguyên như làm suy giảm lòng tin của
người dân tại chỗ với Đảng, ảnh hưởng tiêu cực đến khối đoàn kết dân tộc vốn tốt
đẹp do Đảng ta dày công xây dựng trong hai cuộc kháng chiến, gây tâm lý bất an,
thụ động trong xây dựng cuộc sống mới của người dân, là một trong những nguyên
cớ hình thành hệ phái “Tin lành Đề Gar” phản động, cũng là một trong những
nguyên cớ để các thế lực phản động trong và ngoài nước lợi dụng kích động người
dân tham gia biểu tình bạo loạn, gây căng thẳng về an ninh chính trị ở Tây
Nguyên. Vấn đề đặt ra là cần có những chính sách hợp lý và khả thi nhằm giải
quyết ổn thỏa các mâu thuẫn bức xúc và thiết yếu về đất đai, về tôn giáo, về
không gian sinh tồn buôn làng, về nghèo đói và về phân hóa giàu nghèo cho các
dân tộc thiểu số tại chỗ.
Quan
hệ dân tộc, tôn giáo và an ninh chính trị ở các dân tộc thiểu số cho thấy, hơn ở
đâu trong đất nước, ở Tây Nguyên vấn đề dân tộc và tôn giáo đã và đang quyện
vào nhau, cùng tác động bất lợi đến phát triển bền vững kinh tế - xã hội và an
ninh chính trị vùng và quốc gia.”