Chùa Bửu Minh Gia Lai - Mobile
Thiểu dục tri túc
Châu Trọng Ngô
13/01/2014 21:25 (GMT+7)


Ở đây tôi xin phép chỉ trình bày phẩm chất “thiểu dục tri túc” và phân tích phần tích cực của phẩm chất này trong việc đào tạo con người với cung cách sống “mỗi người vì mọi người”.

Điều đáng lưu ý đầu tiên là trong lời khuyên “thiểu dục”, chúng ta phải hiểu rằng những ước muốn tích cực, thiết thực, làm điều tốt để phục vụ cuộc sống vẫn được ca ngợi như hằng ngày chúng ta được nghe qua những trường hợp thành công rực rỡ của nhiều thanh niên hiếu học vượt khó, của nhiều phụ nữ miệt mài lao động, của nhiều nông dân cần cù thực hiện các dự án nuôi trồng.

Đó là những loại thiện dục, rõ ràng là ở mức cao hơn một loại ước muốn khác, ước muốn buộc phải có do những nhu cầu tự nhiên như ăn, mặc, ở mà bất cứ một xã hội ổn định nào cũng đã định ra một mức sống tối thiểu cho người dân. Chính trên mặt bằng của mức tối thiểu đó chúng ta mới bàn đến “thiểu dục”; nói thế để chúng ta khỏi nói tới sự khổ luyện “tam thường bất túc” của nếp sống đạo. Điều đáng nói là lề thói của một số người lạm dụng nhu cầu để tư kỉ tư lợi, rất dễ dẫn đến nhiều tiêu cực trong cuộc sống đời thường.

Chung quanh ta, gần như quá dễ dàng nghe thấy nhiều trường hợp người giàu sang, dư thừa mọi thứ nhưng lại luôn luôn cau có lo âu. Lắm khi họ đi kiếm người để than thở, đi tìm chỗ để cầu xin. Đêm, ngày không ngủ được, lo nghĩ trăm mưu ngàn kế để đạt cho được điều đã ước mong. Đó là những trường hợp còn quá nhiều dục vọng, mong cầu đủ thứ, có rồi còn ưng có thêm nữa, mong cầu này dù đạt được sẽ kéo theo mong cầu khác, một sinh hai rồi sinh ba, sinh bề bộn, tạo nên tâm trạng rối bời. Người tham dục như thế, tham sắc tham danh, tham lợi nói chung là bị đắm chìm trong nhục dục ngũ trần, lấy đâu được giây phút hạnh phúc, làm sao an tịnh được tâm hồn để hướng về nẻo thiện, giúp đỡ tha nhân. Câu kinh Pháp Cú 216 đã ghi:

“Ái dục sinh sầu muộn,
Ái dục sinh lo sợ,
Người đã trọn vẹn dập tắt ái dục,
Không còn sầu muộn, càng ít lo sợ”.

Dập tắt ái dục là một thái độ rốt ráo, trong cuộc sống đời thường mấy ai đạt được. Nhưng bớt ước muốn (thiểu dục) để ít lo sợ và giảm sầu muộn thì không ít người đã làm được bằng cách có nếp sống tri túc, nghĩa là biết đủ. Đủ ở đây phải được hiểu là đủ so sánh với hoàn cảnh, với công việc và với trách nhiệm của mỗi người.

Trong nếp sống “thiểu dục tri túc”, mọi ước muốn đều phải phù hợp ngang tầm vóc, ngang nhu cầu tối thiểu thì may ra mới không đưa đến ưu phiền, đau khổ. Khi đã có và cái có đã đủ, đủ theo ý nghĩa nêu trên thì phải biết đủ (tri túc) và đừng mong cầu gì nữa. Có tri túc mới không có tình cảnh đi quỵ luỵ, năn nỉ cầu xin. Có thể mới cảm nhận được tự do, mới tránh được sỉ nhục. Thế nên người xưa đã để lại lời dạy:

“Tri túc thường lạc, đa  tham tắc ưu. Tri túc giả, bần tiện diệc lạc. Bất tri túc giả, phú quý diệc ưu. Tri túc thường túc, chung thân bất nhục. Tri chỉ thường chỉ, chung thân bất sỉ. Tỷ thượng bất túc tỷ hạ hữu dư”. (Biết đủ vui hoài, tham nhiều lo mãi. Biết đủ nghèo hèn cũng vui. Không biết đủ giàu sang cũng khổ. Biết đủ thường thấy đủ, cả đời không nhục. Biết thôi thường thôi, cả đời không hổ. So với trên không đủ, sánh với dưới thì dư).

Hiểu là hiểu vậy nhưng sống thiểu dục tri  túc thì không dễ. Kẻ hám danh, người hám lợi, một số người lại tham đắm sắc dục, quả thật cuộc đời đầy quyến rủ, đầy cạm bẫy, phức tạp khôn lường.
Theo thói thường thì người đời rất muốn người khác nể vì trọng vọng mình, nhiều khi chẳng phải do phẩm chất của mình mà lại do mình quen lớn. Ý muốn đó là tham danh mà đương sự đã quên mất rằng người ta trọng vọng mình có quen lớn chứ không phải trọng vọng mình. Khi không được trọng vọng thì sinh ra phiền bực, giận hờn, thật là vô lối. Sao lại ưng người ta đối xử với mình quá mức mình đang là.

Tri túc về danh thì khỏi phải chạy vạy nhờ vả mong kiếm cho ra một chức vụ cao hơn mà mình không xứng, không hề chọn đường bất chính để kiếm thêm bằng cấp, học vị không do công lao học tập của mình, vượt quá trình độ hiểu biết của mình. Có tri túc thì không bao giờ trang trí cái ta hơn cái ta đang là.
Người tham lợi thì lại thấy cái đương nhiên là của ta khi muốn nhận những món lợi không do mình làm ra. Những ví dụ có thể quá dễ thấy trong xã hội mà báo chí hằng ngày đã vạch ra, đôi khi những tiêu cực đã biến thành thói quen, ngang nhiên ăn mòn dần tính trung thực lẽ ra phải có một cách toàn vẹn trong mọi công việc. Những tiêu cực đó rất thường khi xảy ra cho những kẻ đã có đủ hoặc đã dư thừa, lần hồi trở thành trầm trọng với những hình thức hối lộ, tham nhũng.

Tri túc về lợi thì không chịu hoà mình vào những trường hợp đắc lợi không do mồ hôi nước mắt mình làm ra. Nếp sống đó là một mặt tích cực mà xã hội nào cũng trông chờ. Người xưa đã để lại lời dạy quý giá cho muôn đời:

“Phú dữ quý thị nhân chi sở dục dã, bất dĩ kì đạo đắc chi, bất xử dã. Bần dữ tiện thị nhân chi sở ố dã, bất dĩ kỳ đạo đắc chi bất khứ dã. Bất nghĩa nhi phú thả quý ư ngã như phù vân”. (Giàu sang ai chẳng muốn, nhưng có được bằng đường bất chính ta không thèm. Nghèo hèn ai chả ghét, nhưng thoát ra bằng cách gian tà ta không chịu. Giàu sang mà bất nghĩa ta coi như mây nổi mà thôi).

Tri túc về sắc dục thì không có quan hệ lang chạ thầm kín với người khác phái ngoài vợ hay chồng mình; đây là yếu tố căn bản nhất của nếp sống gia đình để bảo vệ hạnh phúc cho chính gia đình mình, danh giá cho mình và không phạm đến hạnh phúc danh giá của kẻ khác. Liên quan vấn đề này, một trong năm giới mà có lẽ mọi người phải noi theo, đức Phật đã dạy: “Người ôm lòng ái dục cũng như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, quyết bị nạn cháy tay” (Kinh Tứ Thập Nhị Chương).

Trong hiện tình dân số thế giới đang càng ngày càng tăng vọt đáng ngại, vấn đề tri túc này còn được hiểu rộng thêm ra là phải hạn chế sinh đẻ để góp phần ổn định xã hội. Có con đầu lòng đúng là nền tảng của hạnh phúc gia đình, nhưng đây là thứ hạnh phúc có được bằng mồ hôi nước mắt, bằng lo âu đủ thứ và dài ngày. Qua đứa con thứ hai, có lẽ hạnh phúc cũng chỉ vậy nhưng công lao nuôi dưỡng hai con đã phức tạp hơn nhiều. Đâu phải chỉ cho ăn, cho mặc, chỉ lo giữ gìn sức khoẻ cho con không mà thôi. Còn phải lần hồi dạy dỗ về tính tình, kể cả lúc đã cho con đi học. Rõ ràng là bổn phận làm cha làm mẹ không dễ. Đến khi có đứa con thứ ba thì nhiều gia đình đã quên dần niềm hạnh phúc ban đầu để chỉ còn theo thói quen nuôi con cho khôn lớn, lắm lúc phải tự an ủi mình “trời sinh trâu sinh cỏ”, hoặc “năm ngón tay phải có ngón ngắn ngón dài”, như là những người tự biện hộ về sự bất lực của mình khi không tròn bổn phận nuôi dạy con mà nền giáo dục và y khoa hiện nay đã bảo rằng phải dạy con từ khi còn trong bụng mẹ (thai giáo).

Những khi thấy một người quát mắng con hay đánh đập con trong cơn thịnh nộ, khi nghe trường hợp cha hoặc mẹ để chạy theo những cám dỗ hoặc khi đọc tin có người con xử sự hết tình đối với cha mẹ, có lẽ không ai là không suy nghĩ: “thế thì thà đừng có con là hơn”.

Không thiểu dục tri túc còn có nhiều cách thể hiện, đôi lúc nhìn qua thấy không có gì động chạm đến đời sống xã hội nhưng kỳ thật đã đưa lại những tai hại không nhỏ.

Đó là trường hợp không thiểu dục tri túc của những kẻ quen thói la cà quán xá nhậu nhẹt say sưa, vung phí tiền bạc của gia đình, lại không giữ gìn được sức khoẻ và lắm khi rượu vào lời ra, lập bè lập nhóm để chém giết lẫn nhau, hoặc vì quá chén gây nên tai nạn khi lái xe dọc đường.

Không thiểu dục tri túc nên mới xuôi theo thị hiếu “mốt” này “mốt” nọ, bất kể trong nhà có tiền hay không. Xem phim Hàn Quốc hay Nhật Bản, thấy nữ diễn viên chính đi đôi giày lạ hay có bộ y phục đặc biệt, thế là không ít người thuộc phái nữ đua nhau mua sắm giày, quần áo y như vậy; thấy nam diễn viên có đầu tóc hay hay thì một số thanh niên lại đi đổi kiểu tóc cho giống. Tánh đua đòi đã vượt ra ngoài nhu cầu thực sự của mình, đã làm cho nhiều bà mẹ buồn phiền và cũng đã rất dễ đẩy tuổi trẻ ra xa cội nguồn dân tộc.

Một cuộc sống không thiểu dục tri túc đã có nhiều tác hại cho cá nhân rồi từ đó cho xã hội. Giai do chỉ vì cá nhân không chế ngự lòng tham, một trong tam độc tham, sân, si đã làm trì trệ bước đường tu thân cho nhiều người và cũng đã gây nên không biết bao nhiêu tội phạm trên đời: mua gian bán lận, buôn lậu, mua bán ma tuý, chặt cây phá rừng, mua bán sắc dục, bắt cóc trẻ em, cướp của giết người, mua bằng bán tước, hối lộ tham nhũng… hình thức tội phạm càng ngày càng mới không sao đoán trước được.

Người đời thường bảo lòng tham là vô đáy, nhưng với cung cách thiểu dục tri túc, không còn tư kỉ tư lợi, chắc chắn đời người thường được an lạc, tâm trí được an tịnh, sáng suốt để chu toàn các công việc. Nếu là nhà kinh doanh chẳng hạn thì nguyên tắc tri túc khiến người đó dám nghĩ đến những dự án phù hợp với những điều kiện đang có của địa phương về hoàn cảnh, kinh phí, tài nguyên, nhân lực… có thể mới dễ thực hiện thành công dự án và sau đó mới đem lại kết quả tốt.

Cuộc sống đang phô diễn dưới thiên hình vạn trạng, trong hoàn cảnh hiện nay của đất nước ta, mọi nỗ lực đều nhắm đến công cuộc xây dựng một cuộc sống phồn vinh trong đó mọi người dân được an cư lạc nghiệp. Nhưng đâu đó đang còn những hiện tượng tiêu cực đang kìm hãm bước tới đích cao đẹp đó, đang là mối bận tâm chung của xã hội. Trong bối cảnh như thế, có lẽ nếp sống thiểu dục tri túc là một phương thuốc mầu nhiệm, nếu không xoá hẳn được thì cũng làm giảm được nhiều tiêu cực hiện nay, tăng đà phát trển cho đất nước.

Để kết thúc phần trình bày những ý kiến thô thiển trên đây, tôi xin phép được nêu ra một hình ảnh về vai trò quyết định của một con người trong câu nói của một người xưa: “Nhân thường giảo đắc thái căn tắc bách sự khả tố”. (Người thường nhai được rễ rau thì trăm việc đều làm được).

C.T.N

http://www.lieuquanhue.vn/v%E1%BA%A5n-%C4%91%E1%BB%81-h%C3%B4m-nay/7701-thi%E1%BB%83u-d%E1%BB%A5c-tri-t%C3%BAc.html

Các tin đã đăng:
Về đầu trang