và chính các bạn nếu thiết
tha với vận mệnh tổ quốc và đạo pháp, thì ít nữa,
đã hơn một lần, chúng ta suy nghĩ tới và chính
chúng ta đã góp sức và chịu những hy sinh để thể
hiện ý nghĩa cao cả đó.
Nhưng, xuyên qua
những sinh hoạt và những cuộc vận động cam go
của chúng ta, của Phật giáo trong những ngày
trước đây, ít nhiều đã đòi hỏi tâm thức chúng ta
phải làm một cuộc duyệt xét toàn bộ bản chất
chung của đạo Phật của dân tộc, của chính chúng
ta và của giáo hội để phát hiện lấy một thế cách
và tiêu chuẩn tương đối đúng hơn, thích hợp với
nhu cầu thực tại của dân tộc và chiều hướng đi
tới của lịch sử, để chúng ta đóng góp trong tinh
thần vô ngã, vô úy của truyền thống Phật giáo
đối với Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung.
Trước những đòi
hỏi cấp bách của tình thế đất nước, do tinh thần
phụng sự dân tộc và đạo pháp quá nhiệt thành của
toàn thể Phật tử Việt Nam, giáo hội chúng ta đã
phải đứng ra làm một cuộc vận động lịch sử dân
tộc hết sức quyết liệt, có nhiều kháng lực nguy
hiểm.
Trong khi đó
những nhà lãnh đạo giáo hội cũng hiểu rằng, với
sự chưa kịp chuẩn bị thật chu toàn tiềm lực Phật
tử, giáo hội sẽ gặp nhiều thất bại hơn là thành
công. Tuy nhiên, đấy cũng là một kinh nghiệm
thật quý giá cho những người quyết tâm phụng sự
dân tộc và thể hiện đạo pháp, và đấy cũng là một
gạn lọc lịch sử để chúng ta phát hiện được khả
năng phục vụ của chúng ta và những người cùng lý
tưởng với chúng ta, đồng thời tìm đúng thế cách
mà giáo hội phải cung ứng đối với nhu cầu dân
tộc.
Bởi đó những
người của hôm nay và ngày mai đang và sẽ phải
nắm một vai trò hết sức trọng đại của dân tộc và
đạo pháp hãy nên tỉnh trí quyết nhẫn vượt thoát
những mặc cảm tự tôn đối với những thành công,
hoặc mặc cảm tự ty đối với những thất bại nhất
thời của chúng ta, của giáo hội, để chuẩn bị
thật đầy đủ hành trang cần thiết, đi lên xây
dựng cuộc sống và lịch sử dân tộc, bằng tinh
thần của người Phật tử đã thấm nhuần đạo pháp từ
bi, trí tuệ, dũng cảm.
Đạo pháp chỉ có
giá trị thực, khi những người Phật tử nhận chân
được đạo để thể hiện đạo tính ra bằng cuộc sống
của mình.
Chừng nào chúng
ta thể chứng được đạo pháp ngay trong ta để thể
hiện ra cuộc sống của ta và cuộc sống chung của
chúng ta, thì đương nhiên chúng ta đã làm cho
đạo sống động tiến hóa không ngừng rồi vậy.
Cũng chính do
tinh thần đó, tinh thần căn bản của đạo Phật đó,
mà tiền nhân chúng ta đã phục vụ dân tộc một
cách hiệu nghiệm, đồng thời làm cho đạo Phật
sống động trường cửu giữa lòng dân tộc ta, dù
cho giữa những thời được gọi là thịnh hoặc suy
của Phật giáo. Hai chữ thịnh và suy chỉ được coi
là hình thái của giáo hội mà thôi. Đích thực,
tinh thần Phật giáo không bao giờ suy giảm ở
trong tâm tư và dòng sống của dân tộc Việt Nam,
kể từ ngày Việt Nam đón nhận đạo Phật.
Câu nói có thể là
vu khoát, nhưng cũng rất thật, dù cho những
người không phải là Phật tử, không nhận là người
theo đạo Phật, mà sống đúng với truyền thống dân
tộc Việt Nam thì ít nhiều trong họ cũng tàng
chứa phần nào giáo pháp của đạo Phật rồi. Truyền
thống dân tộc này là tinh thần bao dung, vô ngã,
không chấp trước, không thiên kiến, không chật
hẹp; luôn luôn mở rộng để đón nhận, gạn lọc
những chất liệu tốt đẹp bất cứ từ đâu đến để
chuyển hóa dân tộc. Đó cũng là đặc tính đích
thực của đạo Phật. Cũng bắt nguồn từ khởi điểm
ấy, mà chúng ta có thể nói là truyền thống của
dân tộc và đạo pháp chỉ là một thể duy nhất,
phối hợp hòa điệu duy nhất cũng vậy.
Nói như thế, lại
cũng không có nghĩa là chúng ta, những người
nhận mình là con Phật đã có được tinh thần
truyền thống tốt đẹp cả đâu.
Chúng ta đã học
đạo, chúng ta đã hiểu thế nào là phá chấp, điều
căn bản của sự giải thoát, nhưng thực tế khó lắm,
thân nghiệp chúng ta vốn nặng nề, tôi và các bạn
chắc hẳn cũng còn nhiều điều chấp giữ hoặc hữu
ý, hoặc vô ý, nếu không thì cũng do tha nhân
phân loại chúng ta. Chúng ta đang sống trong cõi
sống phân loại, hiển nhiên chúng ta không thể
thoát được thông lệ muốn phân loại, hoặc bị phân
loại. Chúng ta phải chấp nhận sự thực bi đát đó.
Chúng ta vẫn là
những Phật tử, giáo hội chúng ta vẫn là một giáo
hội khác với các giáo hội của tôn giáo khác. Và
trước lối nhìn của những người không phải là đạo
Phật, Phật giáo vẫn là một thực thể khác với
thực thể dân tộc này. Chúng ta không chối cãi
điều đó.
Nhưng điều quan
trọng đối với người Phật tử chân chính là sự cố
gắng thể hiện đức vô ngã bao dung ra ngay trong
cảnh giới và cuộc sống của mình. Với ý hướng và
nỗ lực đó, không sớm thì muộn, chúng ta cũng
vượt thoát được những chấp trước tự thân để tự
giải thoát và phục vụ dân tộc một cách hiệu
nghiệm như tiền nhân ta đã từng làm đối với dân
tộc. Như ta đã thấy, con người có thể không hiểu
gì về Phật giáo mà vẫn sống theo tinh thần đạo
Phật một cách chân thành. Đó là đại nguyện của
chư Phật, và đó cũng là đại nguyện của những
người đi theo con đường Phật.
Khi chúng ta đã
tỉnh trí quyết tâm như trên, chúng ta có thể vui
vẻ sống giữa cuộc sống phân loại khổ đau này,
với những gì chúng ta đang có trong ta, đang bị
tha nhân quy định chúng ta, sống trong sự phát
triển của giáo hội chúng ta, sống trong nỗ lực
đi tới của dân tộc giữa trào lưu thế giới mở
rộng, để thể hiện đặc tính của đạo pháp. Vì một
điều dễ hiểu là mỗi người chúng ta, tập thể
chúng ta, các tập thể khác, dân tộc của chúng ta,
các dân tộc khác đều sống trong tinh thần bao
dung và nỗ lực vận động lịch sử tiến đến tốt đẹp,
thì chung cuộc tất cả sẽ gặp nhau trong sứ mệnh
với một hòa điệu nhiệm mầu của lẽ sống. Chúng ta
chỉ có thể tìm nổi một nền hòa bình, một cuộc
sống tiến bộ đích thực trong chiều hướng đó.
Vậy, nói đến việc
chuẩn bị đầy đủ hành trang để lên đường phục vụ
của mỗi người, của giáo hội đối với dân tộc và
nhân loại, trong một môi trường sinh hoạt cộng
đồng, theo tinh thần Phật giáo, hiển nhiên chúng
ta không làm công việc xây dựng tư thế cho cá
nhân chúng ta hay một cá nhân nào đó, hoặc cho
riêng tôn giáo chúng ta, mà chúng ta phải xem cá
nhân chúng ta như một thực thể phải có, bỏ đi
cũng không được,và tập thể chúng ta như một môi
trường kết hợp những người cùng chung một ý
hướng, để tạo cơ duyên mạnh mẽ cho công trình
phục vụ xứ sở và đồng bào. Khi bản thân đã trên
đà tiến hóa tốt đẹp theo tiêu chuẩn của đạo pháp,
giáo hội là một tập thể kết hợp bởi những người
thấm nhuần đạo lý đó, thì thật sự đã tạo nổi một
sức đi lên vĩ đại cho dân tộc rồi vậy.
Ở đây, hôm nay,
tôi không muốn làm công việc mời các bạn duyệt
xét lại chính bản thân mình và những giáo lý căn
bản của đạo Phật, để xem đạo Phật có thích hợp
với tâm tư con người thời đại hay không, vì rằng,
tôi và các bạn đã là tăng, tín đồ Phật giáo,
đang sống trong một tập thể mang nhiều ý nghĩa
tri thức của giáo hội, tối thiểu chúng ta đã
nhiều lần tự tìm chính chúng ta và tìm hiểu đạo
của chúng ta theo. Bởi đấy, trên một căn bản nào
đó, chúng ta đã thấy được rằng, trên con đường
giác ngộ giải thoát mà chúng ta chung bước và
chúng ta thấy rằng chúng ta có thể vững tâm đi
trên con đường đó.
Điều cần nói ở
đây là, chúng ta phải ứng dụng phương cách nào
để chuyển hiện đạo Phật của chúng ta vào cuộc
sống hiện đại của dân tộc, một cuộc sống vô cùng
phức tạp, không những đối riêng với những người
dấn thân phục vụ mà còn đối chung cả với dân tộc
quá nhiều bất hạnh khổ đau này. Phải nhìn một sự
thật, dù hết sức phũ phàng, là dân chúng hiện
nay đã đau khổ, đã bị lường gạt quá nhiều rồi,
bởi đó những công trình dù mang một nội dung và
ý nghĩa tốt đẹp tới mấy, cũng không thể một lúc
mà có thể thuyết phục nổi dân chúng Việt Nam đầy
chán chường và hoài nghi này được.
Phải kể rằng:
phong trào vận động của Phật giáo Việt Nam là
một dấu hiệu của sự bừng lên mãnh liệt của dân
tộc mấy trăm năm bị dồn nén. Có thể nói được đấy
là một thành công vĩ đại nhất của dân tộc và của
Phật giáo, thành công không phải là ở chỗ lật đổ
một chế độ, mà thành công ở chỗ những ngọn lửa
vô úy, vô ngã của Phật giáo và dân tộc đã có sức
mạnh mầu nhiệm làm rung động đến tận cùng tâm
thức toàn thể nhân loại. Nhân loại dù đang sinh
sống trong một thời đại mà giá trị vật chất hầu
như tràn lấn giá trị tinh thần, thì cũng bàng
hoàng sực tỉnh trước sức mạnh vô biên của tinh
thần Phật giáo và Việt Nam. Kể từ đó giá trị
tinh thần đích thực của nhân loại được biểu lộ
một cách vẻ vang.
Như trên tôi đã
trình bày, vì chúng ta chưa kịp chuẩn bị chu đáo
cho một cuộc chuyển hóa toàn diện vận mệnh dân
tộc và nhân loại, nên chúng ta đã bị các thế lực
vô minh hoặc vì không hiểu gì về bản chất cố hữu
của đạo Phật, nhất là đạo Phật Việt Nam, đã coi
chúng ta như một lực lượng có thể làm phương hại
đến quyền lợi của họ. Bởi đấy những âm mưu hết
đợt này đến đợt khác được giăng ra để quyết liệt
"triệt hạ" Phật giáo Việt Nam, cộng với những
yếu tố khách quan đó, chúng ta lại cũng còn
nhiều sơ hở do nơi phong trào bị bức bách phát
khởi đột ngột, hàng ngũ giáo hội chưa được đãi
lọc và tổ chức chu đáo cần thiết, nên dễ dẫn tới
tình trạng phân hóa, phát sinh vì những quan
niệm đối nghịch về sự ứng thân vào thời đại của
giáo hội.
Thật tình chúng
ta đã thành công về cả mặt thực tế, nhưng thành
công với cả một sự bỡ ngỡ, bỡ ngỡ đến độ mang
nặng tính cách thỏa mãn, đôi khi tạo ra những
ngộ nhận với dân chúng, để cho người dân không
cùng tôn giáo có thể ngờ rằng một sớm một chiều
đạo Phật sẽ tiến lên chiếm ngôi vị quốc giáo.
Sự
thật
thì đạo Phật Việt Nam không hề có những mưu đồ
về quyền lực, dù chỉ là quyền lực tôn giáo. Đạo
Phật Việt Nam trong thời thịnh cũng như lúc suy
về mặt nổi vẫn là một đạo Phật nhịn nhục phục vụ
cho nhân thế, giúp nhân thế chuyển hóa nghiệp
lực để cùng sống một cuộc sống giải thoát. Sự
tồn tại của Phật giáo trong trường kỳ lịch sử
Việt Nam đã là một chứng minh hùng hồn cho tinh
thần phụng sự vô úy, vô chấp của người Phật tử
chân chính. Thịnh thời đối với Phật giáo cũng
không phải là một điều kiêu hãnh, suy vi đối với
Phật giáo cũng không phải là một lo âu. Điều
đáng lo của Phật giáo trước sau vẫn chỉ là: lo
không làm sáng được Phật tính trong chính mỗi
người và cuộc sống chung quanh mà thôi. Không có
một thế lực nào, dù mạnh tới đâu, cũng có thể
tiêu diệt nổi đạo Phật. Chỉ trừ khi chính tư
tưởng của đạo Phật bị tư tưởng của chúng sinh
vượt bỏ. Mà điều này các bạn có thể tin chắc
rằng: Tư tưởng đạo Phật không bao giờ bị vượt
bỏ. Tư tưởng đạo Phật có tính cách toàn diện,
đa ứng.
Phật giáo đã ứng
dụng được ở những thời mà tư tưởng con người còn
mang nặng đầu óc đa thần. Phật giáo cũng đã
thích ứng với thời đại độc thần. Và dù hiện nay
tư tưởng duy thần không còn đất đứng trong nhân
thế nữa thì Phật giáo vẫn tồn tại một cách vẻ
vang.
Vì, đạo Phật là
đạo của Con Người Giác Ngộ. Còn con người là còn
đạo Phật. Con người còn khổ đau, phương pháp
giải thoát của đạo Phật lại cần viện cầu tới.
Cho đến khi nào chúng sinh hoàn toàn giác ngộ và
giải thoát, thì chừng đó đạo Phật hết sứ mệnh
đối với nhân thế. Trước sau gì thì đạo Phật vẫn
chỉ là chiếc bè đưa chúng sinh qua sông đau khổ.
Đại nguyện của chư Phật là sớm thấy được chúng
sinh quẳng chiếc bè ở bờ giải thoát. Ngày ấy đối
với thế giới chúng ta là ngày nào? Khó mà biết
được. Bởi đấy đạo Phật vẫn còn công dụng là một
chiếc bè, từng kiếp từng kiếp, từng thời từng
thời, đưa người vượt qua bể khổ, bến mê.
Nói riêng về dân
tộc Việt Nam thì đạo Phật đã thể nhập vào dòng
sống của dân tộc này không thể tách rời ra được
nữa. Phật giáo đã đến với dân tộc Việt Nam trong
tư thế của một người bạn để cùng dân tộc Việt
Nam chung chịu mọi bất hạnh của một nước nhiều
lần bị lệ thuộc, và chung vinh quang mỗi khi dân
tộc quật cường. Người bạn chí thiết lâu đời đó
đã không còn là hai như thuở ban đầu nữa, mà trở
nên một thể duy nhất. Dù có muốn tách biệt cũng
không còn biết đầu mối ở đâu mà tách biệt, đừng
nói tới những khách bàng quan muốn dùng thủ
thuật nhất thời để tách Phật giáo ra khỏi dân
tộc này. Việt Nam còn, Phật giáo còn. Phật giáo
còn, dân tộc còn. Nói như vậy không có nghĩa:
Phật giáo là loại tầm gửi của cây cổ thụ Việt
Nam. Vì rằng, chính Phật giáo là chất liệu cho
cây Việt Nam trường thọ xanh tươi. Quả vậy, một
dân tộc không thể bị biến mất bằng những cuộc
thống trị chính trị, quân sự, kinh tế, một dân
tộc chỉ có thể đồng hóa và biến mất đặc tính,
khi bị văn hóa của các nước lớn khống chế, mà
không có vũ khí văn hóa để vừa chống trả vừa
thâu thái để vun đắp cho lâu đài văn hóa cho dân
tộc mình.
Phật giáo đối với
dân tộc Việt Nam được coi như một thứ vũ khí
tinh thần hiệu nghiệm nhất để vừa đối kháng với
nền văn hóa vĩ đại Trung Hoa, vừa thâu thái
những tinh hoa của nền văn hóa đó, rồi dung hòa
cả hai nền văn hóa Ấn Độ - Trung Hoa với tinh
thần phải chăng của dân tộc, làm thành một nền
văn hóa Việt Nam sống động trong tâm tư mỗi
người và trong cuộc sống dân tộc.
* Về Mặt Cách
Mạng, đích thực dưới những thời bị Bắc thuộc xa
xưa, đạo Phật đã là chất men của cách mạng: đạo
Phật đã khích lệ mạnh mẽ tinh thần tự chủ của
con người và, do đó, đưa đến sự đòi hỏi một nền
văn hóa đã có cá tính khác biệt với nền văn hóa
của đế quốc, thì công việc đấu tranh giành tự
chủ chỉ là công việc của thời gian mà thôi. Đạo
Phật đã tạo ra những nơi quy tụ cho các chiến sĩ
của dân tộc. Đạo Phật đã tạo ra những tập thể
tín đồ phụng sự cho đại nghĩa dân tộc. Dân tộc
Việt Nam không một e ngại nào đối với đạo Phật,
vì, đạo Phật xuất phát từ một nước không bao giờ
có thể trở thành đế quốc đối với Việt Nam. Đạo
Phật lại cũng không phải là một thức đế quốc tư
tưởng, vì đạo Phật không hề có giáo quyền quốc
tế trung ương. Đạo Phật chỉ là đạo của Con Người
Giác Ngộ và hết mình phục vụ cho xứ sở mà đạo
Phật đang có mặt. Chính vì vậy mà trước kia,
trong lịch sử, đạo Phật đã cùng với dân tộc Việt
Nam phấn đấu cho một nền tự chủ vẻ vang của dân
tộc. Và, trong hiện tại, đạo Phật đã hơn một lần
thể chứng điều đó một cách cụ thể.
Bản chất của đạo
Phật là bản chất của một đạo cách mạng toàn
triệt. Cách mạng trên ý nghĩa đúng và toàn thiện.
Vì rằng cuộc cách mạng đó đã bắt đầu trong sứ
mệnh thường xuyên chuyển biệt nghiệp của cá nhân
và bằng mọi nỗ lực chuyển cộng nghiệp của tập
thể. Đạo Phật là đạo của cách mạng, một cuộc
cách mạng rốt ráo, liên tục, trường kỳ. Những
người theo đạo Phật đúng đắn, đương nhiên đã tự
đặt mình trong một cuộc cách mạng lớn lao rồi
vậy. Chữ cách mạng chúng ta dùng ở đây là một
danh từ thật chính xác, không mang một mưu đồ
xảo trá nào. Vì, nếu đã hiểu đạo Phật một cách
thật đến nơi đến chốn, thì chúng ta sẽ phát hiện
được tính chất cách mạng chân chính của đạo Phật.
Cách mạng bản thân để tiến lên cách mạng xã hội.
Một cuộc cách mạng xã hội dù được trang bị với
bất cứ lý thuyết và danh từ tốt đẹp nào, cũng sẽ
bị thoái hóa; nếu bản thân những người làm cách
mạng và những ngươi tham dự cách mạng không
triệt để cách mạng chính mình.
Về bản thân cách
mạng, đạo Phật đã nói lên thật đầy đủ và trọn
vẹn, tất cả kinh điển đạo Phật và sự tu dưỡng
theo đạo Phật là một công trình nhằm hướng con
người tới một cuộc tự cách mạng để giải thoát ra
khỏi những mê lầm chấp giữ. Một con người khi
phá bỏ được sự chấp hữu cá nhân, không còn tự
kiêu, thiên kiến, không còn tham chấp vật dục,
lòng rộng mênh mông, trí sáng trong lành, và lại
quyết tâm phụng sự nhân thế thì thử hỏi còn gì
tốt đẹp cho bằng.
Một cuộc cách
mạng do những người như vậy thể hiện mới thực là
một cuộc cách mạng chân chính, không mang một âm
mưu đen tối nào hết.
* Về Mặt Chính
Trị, khi chúng ta đã đặt mình trong một cuộc
sống tập thể tôn giáo, tập thể xã hội hay quốc
gia, đương nhiên chúng ta đã phải tham dự vào
đời sống chính trị rồi. Đạo Phật không xa lánh
cuộc đời. Vì đạo Phật, ngoài phần tự giải thoát
bản thân, còn phải giải thoát cho nhân thế, cho
chúng sinh nữa. Thế nên đạo Phật không phải là
một tôn giáo yếm thế. Đạo Phật luôn luôn nhập
cuộc để tham dự những chuyển đổi xã hội. Đạo
Phật không làm chính trị với những âm mưu thủ
đoạn, theo quan niệm thế tục của những người chỉ
biết lợi dụng con đường chính trị để mưu tìm địa
vị quyền lợi.
Đạo Phật làm
chính trị như một cuộc vận động giải thoát xã
hội khỏi cảnh tối tăm bức chế. Đạo Phật không
đòi địa vị trong chính quyền, cũng không chủ
trương đem tôn giáo mình lên hàng quốc giáo, để
đàn áp các tôn giáo khác, các tư tưởng, ý hệ
không đồng quan điểm. Nếu bất đắc dĩ như dưới
thời nhà Lý, đạo Phật được vua, quan và dân
chúng tôn lên địa vị quốc giáo thì như đã thấy,
văn miếu thờ các vị thánh Nho và điện thờ tiên
Lão cũng được dựng lên tại kinh đô và khắp các
làng xã. Đạo Phật không có chủ trương hẹp hòi
chia rẽ tôn giáo và nhất là không mang tính cách
tiêu diệt tôn giáo. Đạo Phật là đạo từ bi, trí
tuệ, bao dung, luôn luôn chủ trương tự do tín
ngưỡng, tự do phát triển các ngành: nghệ thuật,
học thuật và kỹ thuật.
Chính vì chưa
hiểu được bản chất của đạo Phật, nhất là đạo
Phật Việt Nam, nên những người theo đạo Phật một
cách hời hợt, và những người đứng ngoài Phật
giáo, thường có những ngộ nhận về hành vi được
coi như chính trị đầy bí hiểm thời đại, cho là
Phật giáo muốn khuynh loát chính quyền, muốn mưu
đoạt chính quyền, muốn có lợi lộc khi nắm được
những ưu thế chính trị. Điều đó hoàn toàn không
đúng. Đạo Phật, trước sau chỉ có một đại nguyện,
là làm tốt đẹp thêm cho nhân thế mà thôi. Sự
chống đối của đạo Phật, nếu có, là sự chống đối
minh bạch đối với những âm mưu chính trị đen tối,
muốn làm sa đọa dân tộc này nói riêng, và thế
giới nói chung. Đạo Phật không chấp nhận bất cứ
sự bất công nào đối với con người. Đạo Phật lại
càng không chấp nhận một chế độ độc tài hoặc phi
nhân làm mất quyền tự chủ của con người và dân
tộc. Những âm mưu nô lệ hóa con người và dân tộc
đều chẳng những không được Phật giáo hỗ trợ mà,
ngược lại, còn bị Phật giáo quyết liệt đối kháng,
cho tới khi nào các chế độ như vậy phải tự
chuyển đổi đường lối chính sách, lấy con người
làm cứu cánh cho chính trị vì không thể áp dụng
một đường lối chính trị không phù hợp với bản
tính con người. Con người là cứu cánh của chính
trị - nói theo nghĩa hẹp - Đó là tiêu chuẩn
chính trị của Phật giáo. Ngược lại đường lối ấy,
dù người Phật tử cầm chính quyền hay bất cứ nhân
vật nào, cũng bị Phật giáo chối bỏ. Làm đúng
tiêu chuẩn của người Phật giáo thì Phật giáo
tích cực xả thân để hỗ trợ, dù người cầm quyền
thuộc bất cứ tôn giáo nào cũng vậy. Nói là tiêu
chuẩn của người Phật giáo cho dễ hiểu mà thôi,
vì thật ra ở bất cứ nơi đâu, ở bất cứ thời đại
nào, con người cũng khát vọng tiêu chuẩn chính
trị như đã nói. Vậy, đừng lo về tư kiến của Phật
giáo, vì Phật giáo không có tư kiến.
Hãy
lo đáp ứng nguyện vọng chân chính của con người
và dân tộc, thì đương nhiên được sự hậu thuẫn
của Phật giáo. Đạo Phật là một đạo mang đặc tính
văn hóa và cách mạng, đạo Phật có sinh hoạt
chính trị là sinh hoạt trên căn bản đó. Sinh
hoạt văn hóa của đạo Phật không chỉ thu gọn
trong lĩnh vực truyền bá giáo lý bằng phương
tiện sách báo và giảng giải. Phật giáo là một
nguồn văn hóa sinh động, trực tiếp đi vào cuộc
sống con người, để con người tự thân chuyển hóa
và khai triển những đặc phẩm văn hóa từng chứa
trong chính mình, rồi biểu hiện ngay trong cuộc
sống qua những công trình sáng tác nhân văn, qua
những hành vi chính trị chân chính, qua những
cuộc chuyển đổi xã hội tốt đẹp, qua nếp sống,
lối sống và cách sống mỗi ngày thêm tươi
sáng.
Với tiêu chuẩn
trên, Phật giáo cũng không phủ nhận những tiến
bộ của kỹ thuật khoa học phục vụ đời sống con
người, nhưng Phật giáo không thể làm ngơ trước
các thế lực vật chất sử dụng các phương tiện vật
chất để khống chế con người, biến con người
thành thứ nô lệ vật chất. Nỗi băn khoăn nhất của
thức giả thời đại là đang phải chứng kiến đà
phát triển vĩ đại của kỹ thuật, trong khi đó,
các lĩnh vực tư tưởng không theo kịp với sự phát
triển đó, khiến cho con người mất hướng, phải
cắm đầu chạy theo những phương tiện vật chất,
biến mình thành những công cụ cho các thế lực
vật chất. Thế giới đang đánh giá nhau bằng những
hỏa lực cuốn hút hủy hoại môi trường sống của
con người, nhất là sinh hoạt chính trị. Mạng
sống con người được sử dụng như phương tiện trao
đổi lấy một số quyền lợi vật chất. Nếu phải nói
tới mục tiêu tối hậu của Phật giáo đối với thời
đại thì mục tiêu đó là làm sao cho con người
thoát khỏi cảnh lệ thuộc vật chất để tiến lên,
hướng những tiến bộ kỹ thuật vào việc phục vụ
con người. Mà đích thực con người mới là cứu
cánh của kinh tế. Chứ không phải "Kinh tế quyết
định tất cả" như chủ nghĩa Duy Vật hằng chủ
trương. Chỉ như vậy, thế giới mới có hòa bình,
xã hội mới hết bất công, sinh hoạt chính trị mới
không lầy lội trong vòng tội lỗi, kỹ thuật khoa
học mới không quay lại tiêu diệt nhân loại; các
nước lớn mới không coi các nước nhỏ là món hàng
trao đổi quyền lợi; các nước nhỏ mới không coi
các nước lớn là đế quốc; cuộc sống tiến bộ đích
thực mới đến với thế giới loài người.
Tới đây, hẳn
nhiên, các bạn đã thấy sứ mạng vô cùng trọng đại
của Phật giáo và các tổ chức, các tôn giáo mang
tính chất văn hóa đến mức độ nào rồi. Đến đây,
hẳn nhiên các bạn cũng đã thấy sứ mệnh của chính
mình, và những công việc chúng ta phải làm trong
hiện tại cũng như trong tương lai. Sứ mệnh càng
trọng đại càng nhiều kháng lực lớn lao. Phải tìm
cho ra những kháng lực đó để chế cản và đi lên,
đó là phần còn lại trong buổi thảo luận hôm nay
của chúng ta. Tất nhiên chúng ta không thể tìm
tới hết thảy mọi vướng mắc được. Bởi đó chúng ta
chỉ bàn tới những nét đại cương, và chuẩn bị sẵn
sàng đón nhận kháng lực bất cứ từ đâu tới trên
bước đường phục vụ của chúng ta. Có như vậy gặp
thất bại mới không làm ta ngạc nhiên và nản lòng;
làm được việc gì có hiệu quả mới không tự kiêu,
tự mãn. Vì kiêu mạn và thoái chí đều là những
tai hại như nhau.
Kháng
lực khó vượt qua nhất phải kể là kháng lực phát
sinh tự chính bản thân. Sự tham lam, lười biếng,
mặc cảm, đố kỵ, thiếu sáng suốt...là những kháng
lực lớn nhất trong hành trình phục vụ của chúng
ta. Bởi đấy, chúng ta phải tạo được cho mình một
tâm bình đẳng, một trí minh mẫn, một đức nhẫn
nhục, tức là quyết tâm thể hiện đạo pháp từ bi,
trí tuệ và hùng lực để đi lên, không một mặc
cảm, không một manh tâm thủ lợi, không một đố kỵ
phân ly, có nghĩa là chúng ta phải tự giải thoát
chúng ta khỏi cái "ta" hẹp hòi vị kỷ, ngu tối và
lười biếng. Khi chúng ta đã thoát được những
kháng lực tự thân thì chúng ta mới không biến
chúng ta thành những kháng lực của đại cuộc.
Những người đồng hành của chúng ta không bao giờ
sợ chúng ta có những âm mưu lợi dụng đen tối.
Đồng hành thực sự trở thành đồng tâm nhất trí và
quyết tiến tới thì lo gì không hoàn thành sứ
mệnh đối với dân tộc và nhân thế.
Với những kháng
lực, thực ra nhiều lắm, không một việc gì ta làm
mà không có kháng lực. Kháng lực do những người
thương ta mà không hiểu ta. Kháng lực do những
người thù ta vì sợ ta làm thiệt hại tới quyền
lợi của họ... Kháng lực về những thiên kiến, bảo
thủ của các tập thể cùng sống trong xã hội.
Kháng lực của thiên kiến về điều kiện không gian,
thời gian mà ta muốn phục vụ... Phương pháp đối
trị với những kháng lực đó, nhất thiết đạo Phật
không dùng tới biện pháp tiêu diệt đối tượng
sanh ra kháng lực, mà là giác ngộ những thế lực
đó để họ không còn là kháng lực nữa. Đối với
thiên nhiên là một kháng lực vĩ đại với kiếp
sống của mỗi con người, thì chúng ta phải làm
sao cho công trình chúng ta theo đuổi có những
người tiếp tục trường kỳ.
* Về Vấn Đề Giác
Ngộ, đối với tha nhân và các tập thể khác, người
Phật tử không thể dùng phương pháp cao áp mà, từ
xưa, người Phật tử chân chính đã lấy chính bản
thân và cuộc sống mình để thuyết phục giác ngộ
người. Hãy sống một cuộc sống giác ngộ, chúng ta
sẽ dễ dàng cảm hóa được tha nhân tự giác. Chính
chư Phật cũng chỉ là gương giác ngộ cho chúng ta.
Còn sự giác ngộ phải phát xuất từ tâm thức chúng
ta. Nói cho người ta nghe, nhưng đừng cho đó đã
thuyết phục được người. Chúng ta chỉ thuyết phục
được người bằng chính cuộc sống của chúng ta.
Lời nói và chữ nghĩa phải phát xuất tự chính
cuộc sống đó, chúng ta mới mong tạo nổi niềm tin
yêu nhận biết của người khác.
Các bạn, tôi muốn
nói với các bạn là, bất cứ công việc gì bạn làm
để góp sức xây dựng và làm tốt đẹp cho cuộc sống,
bạn đều có thể nên làm, cần làm, miễn rằng chính
bạn phải trở nên tốt lành, và những hành vi bạn
làm trong lĩnh vực và nghề nghiệp của bạn đem
lại lợi ích cho tha nhân, cho cuộc sống. Hãy thể
hiện đạo pháp ra trong cuộc sống riêng cũng như
chung của bạn.
Dân tộc Việt Nam
đang đòi hỏi bạn phải sống một cuộc sống giác
ngộ và quyết tâm thay đổi vận mệnh của xứ sở đã
quá đau thương này.
Đạo
Phật Việt Nam không phải nằm trong các nơi cổ
tự, trong các tu viện, thư viện, mà kho tàng
Phật giáo Việt Nam đang tàng chứa trong tâm thức
người dân Việt Nam, nhất là nơi người nông dân
chất phác muôn đời với ruộng đồng cần mẫn. Bạn
hãy đến đó để làm bừng lên cuộc sống của đạo
pháp, và đấy cũng là tinh thần truyền thống của
dân tộc ta.
Tinh thần tự chủ
của dân tộc cũng là tinh thần tự chủ của Phật
giáo, cần phải được viện cầu tới để đưa dân tộc
ta ra khỏi cảnh tủi nhục hiện nay. Tinh thần
dung hòa đối với các nước bạn cũng là tinh thần
truyền thống của dân tộc và của đạo Phật đại
đồng, các bạn hãy lấy đó làm thế cách sinh hoạt
giữa thế giới mở rộng hiện nay. Tinh thần bao
dung đối với các tôn giáo khác của dân tộc cũng
chính là của đạo Phật, các bạn hãy lấy đó làm
phương châm xử thế đối với các tập thể khác để
vận động một cuộc đại đoàn kết dân tộc. Tinh
thần tha thứ cho kẻ thù địch khi thất thế của
dân tộc và của đạo từ bi, các bạn hãy lấy đó làm
tiêu chuẩn đãi ngộ, với các thế lực vô minh,
muốn nhận chìm dân tộc của các bạn mãi mãi xuống
vùng tối tăm.
Đừng
quan tâm tới việc xây chùa và cơ sở Phật giáo
cũng như gây thanh thế cho Phật giáo. Điều đó
không cần. Những thứ đó có thể phá hủy đi được.
Miễn là các bạn và toàn thể dân tộc cũng như
nhân loại sống trong tinh thần của đạo pháp. Dù
cho đạo pháp đó có mang tên gì cũng được. Đừng
quan tâm tới từ ngữ. Chỉ nên xét tới nội dung
của đạo pháp đó có phải là phương pháp giải
thoát cho tự thể và cho cuộc sống chung một cách
hiệu nghiệm hay không mà thôi.
Nói như vậy,
không có nghĩa là tôi đã khích lệ cho sự vọng
động của tâm tư. Nói như vậy, là tôi muốn nói
tới tiếng nói đích thực của đạo Phật. Còn đối
với chúng ta đang sinh sống trong nghiệp lực
chưa thực sự thoát đạt, chúng ta cần phải tiến
lên từng bước rất vững chắc, từ sự tu chứng bản
thân theo đạo pháp tới việc phục vụ dân tộc và
nhân loại. Và như tôi đã trình bày ở trên, môi
trường của người Phật tử hiện nay là giáo hội,
chúng ta phải làm cho môi trường đó trở nên có
tổ chức tốt đẹp và bền chắc để làm thành đại lực
cho sự đi lên của dân tộc và thế giới, trong
chiều hướng thoát cảnh khổ đau tranh chấp, bất
công và nô lệ vật chất.
Một cuộc sống
giải thoát biểu hiện nơi chúng ta.
Thích Đức Nhuận
|