Chùa Bửu Minh Gia Lai - Mobile
Tương quan giữa Tăng sĩ và Cư sĩ tại gia trong thời kỳ Mạt Pháp
Thiện Nhân
09/03/2011 14:51 (GMT+7)


Trong đạo Phật người ta thường coi giới tu sĩ xuất gia như là đại diện của Đức Phật trong việc hoằng dương chánh pháp, tức là truyền đạt lại những lời Phật dạy cho bá tánh để tu hành và noi theo. Quan niệm nầy đặc biệt được áp dụng tuyệt đối trong giới cư sĩ tại gia, đến nổi có nhiều khi quên rằng giới tu sĩ xuất gia vẫn còn phải đương đầu với biết bao thử thách trong cuộc đời trần thế, không khác gì trong giới cư sĩ tại gia.

Nói cho cùng thì giới xuất gia là những vị có quyết tâm cao trong việc tu hành, nguyện dứt bỏ mọi ràng buộc của gia đình để tu hành theo lời dạy của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Về nỗ lực tu hành thì ai cũng biết giới xuất gia vượt trội hơn giới cư sĩ tại gia qua việc xuống tóc, ăn chay trường, thường xuyên tụng kinh, niệm Phật, chí tâm trì giới, quyết tạo cho mình một nếp sống thanh tịnh, xa lánh mọi vướn bận ưu phiền của cuộc đời trần thế nhằm mục đích tự độ và độ tha, tức là tự giúp mình và giúp người khác thoát khỏi kiếp luân hồi. 

Đó là cái lý tưởng của giới xuất gia, là cái mục tiêu nhắm tới trên con đường tu hành của quí ngài. Tuy nhiên đó vẫn chỉ là một trong nhiều phương cách tu hành theo đạo Phật. Phương cách nào cũng có những cái khó của nó. Trong khi giới cư sĩ tại gia thì vướng bận biết bao chuyện đời, cụ thể được mô tả trong cụm từ thường nghe trong Giáo Pháp là ‘gia duyên bận buộc’; giới xuất gia không phải là không vướng bận việc đời thường, bởi vì thực tế là giới xuất gia vẫn luôn luôn có sự liên hệ trực tiếp hay gián tiếp với đời thường do nhu cầu sinh hoạt đời sống tu hành. Như vậy giới xuất gia không thể tách rời được mọi sinh hoạt đời thường. Điều nầy không có gì lạ cả, bởi cả hai giới, xuất gia và tại gia luôn luôn là hai thành phần trong cộng đồng xã hội loài người và có những sinh hoạt liên kết với nhau.

Nêu ra vấn đề liên kết hiển nhiên giữa hai giới xuất gia và tại gia như vậy là muốn nhắc nhở rằng trong đạo Phật, mọi người cần có sự nương tựa lẫn nhau trên con đường tu học. Mỗi giới đều có nghĩa vụ riêng để đóng góp cho nhau trong khi mỗi cá nhân đều có Phật tánh, tức là có một vị Phật ngự ở bên trong mỗi người như một hột kim cương được bao quanh bởi nhiều lớp bụi trần. Khi nào các lớp bụi trần nầy được gột rữa trong tinh thần giác ngộ, tức là tự mình biết, thì Phật tánh hiện ra thể hiện qua các hành vi từ bi, cứu độ chúng sanh. Điều nầy khá phức tạp nên ở đây người viết không muốn đi sâu hơn nữa, mà chỉ muốn nêu ra một vấn đề then chốt, cụ thể hơn, đó là ngoài những đức hạnh đáng tôn kính của giới xuất gia như nêu trên, về một số khía cạnh khác thì các vị nầy vẫn còn mang các bản chất của người trần thế, cho nên không thể coi như là những mẫu người lý tưởng hay hoàn hảo được.

Nói rõ hơn, giới xuất gia vẫn có những giới hạn về kiến thức chuyên môn và luôn luôn có nhu cầu thăng tiến, trau dồi kinh nghiệm trong đời sống hàng ngày. Vì vậy, trong sinh hoạt Phật sự có sự liên kết giữa cư sĩ tại gia và giới xuất gia, thiết tưởng chúng ta nên rõ ràng phân biệt đặc tính của mỗi công việc giữa đạo và đời. Có phân minh rõ ràng như vậy để chúng ta ý thức được rằng không phải vì tôn kính quí chư Tăng Ni mà bao giờ cũng thần tượng hoá hay lý tưởng hoá các quyết định của vị chư Tăng lãnh đạo. Đây là một điều hết sức tế nhị, nhưng người viết ước mong rằng trong tinh thần vô ngã của đạo Phật quý chư Tăng trong giới lãnh đạo từ bi hỷ xả cho, để từ đó, sinh hoạt Phật Giáo trong một tổ chức được hài hoà và thành công tốt đẹp hơn.

Nếu một cư sĩ tại gia lúc nào cũng mang tinh thần lý tưởng hoá các vị lãnh đạo trong giới xuất gia để đến khi thất bại thì sự hối tiếc đã muộn màng. Vã lại trong tinh thần trách nhiệm tích cực, một thành viên cư sĩ tại gia của một tổ chức Phật Giáo không thể ù lì, mù quáng tôn sùng vị sư lãnh đạo của mình để rồi mọi công việc của tổ chức cuối cùng cũng giao cho vị lãnh đạo thực hành; và như vậy, người cộng tác viên cư sĩ tại gia lúc nào cũng ở trong tư thế sẵn sàng khi được chỉ thị thì làm, không được chỉ thị thì ngồi chơi xơi nước! Thái độ nầy cũng không hiếm trong các tổ chức Phật Giáo Việt Nam và đây là một điều đáng tiếc. Chúng ta tôn sùng các vị Tăng sĩ lãnh đạo của mình theo tinh thần của một người Phật tử là điều hiển nhiên, nhưng thái độ tôn sùng không phải áp dụng trong mọi hoàn cảnh hay trong mọi trường hợp, bởi vì như vậy sẽ không giúp ích được nhiều cho vị lãnh đạo của mình.

Có nhiều khi là thành viên cư sĩ tại gia thấy được những hiện tượng nguy hiểm cho giới Tăng sĩ lãnh đạo của mình mà vẫn làm ngơ, nại lý do là vì tôn sùng các vị Tăng sĩ lãnh đạo. Đây là một thái độ tôn sùng mù quáng, tiêu cực, không thể hiện đúng theo ba triết lý căn bản của đạo Phật, đó là ‘Bi, Trí, Dũng’.

Đã có biết bao biến cố đau thương xảy ra gần đây trong sinh hoạt Phật Giáo Việt Nam hải ngoại, mà nguyên do cũng chỉ vì tiêu cực, lý tưởng hoá giới chư Tăng Ni mà không có những hành động tích cực để ngăn chận các hậu quả đau thương ấy. Nói như vậy, người viết hoàn toàn không có ý bác bỏ thái độ tôn kính của người Phật tử tại gia đối với gới chư Tăng, nhưng sự tôn kính của chúng ta phải đi kèm theo ‘Trí’ và ‘Dũng’, để kịp thời có hành động thích hợp.

Đức Thế Tôn đã từng dạy rằng ‘Tin ta mà không hiểu ta là phỉ báng ta’. Nay đối với các vị lãnh đạo Phật Giáo cũng vậy; chúng ta tin tưởng các ngài nhưng phải hiểu các ngài một cách tường tận để giúp các ngài đạt thành ý nguyện – ý nguyện giải thoát và ý nguyện thành đạt trong các công tác Phật sự.

Ước mong thay! Ba triết lý căn bản của đạo Phật – Bi, Trí, Dũng, được áp dụng trong mọi tình huống để ít nhất là tránh được những phiền não phức tạp hầu vượt qua những thử thách chua cay trên con đường tu học. Trong cuộc đời trần thế nầy không có ai hoàn hảo cả, nên mọi người cần có sự giúp đỡ tích cực lẫn nhau, để nương tựa nhau trên con đường giải thoát.

Nguồn: Thư Viện Hoa Sen

Các tin đã đăng:
Về đầu trang