1. Nhân cách vĩ đại của Ðức Phật :
Ðức
Phật là hiện thân của tất cả các đức hạnh mà Ngài thuyết giảng. Trong
thành quả của suốt 45 năm dài hoằng pháp, Ngài đã chuyển tất cả những
lời nói của Ngài thành hành động; không nơi nào Ngài buông thả cái yếu
đuối của con người hay dục vọng thấp hèn. Luân lý, đạo đức căn bản của
đức Phật là toàn hảo nhất mà thế giới chưa bao giờ biết đến. [Giáo sư Max Miller, Học giả người Ðức].
Không
một lời thô bạo nào được thấy thốt ra từ nơi đức Phật trong cơn tức
giận, chưa từng có một lời thô bạo được thấy trên môi đức Phật kể cả
trong lúc tình cờ.
[ Tiến Sĩ S. Radhakrishnan] .
Ðiều
đáng chú ý nhất nơi đức Phật là sự kết hợp gần như độc nhất của một đầu
óc khoa học trầm tĩnh và thiện cảm sâu xa của lòng từ tâm. Thế giới
ngày nay ngày càng hướng về đức Phật, vì Ngài là người duy nhất tiêu
biểu cho lương tâm của nhân loại. [Moni Bagghee, "Ðức Phật Của Chúng Ta"].
Các
bạn thấy rõ Ngài là một nhân vật đơn giản, chân thành, đơn độc, một
mình tự lực phấn đấu cho ánh sáng, một nhân vật sống chứ không phải là
thần kỳ, tôi cảm thấy có một Người, đó là Ngài. Ngài đã gửi bức thông
điệp cho nhân loại hoàn vũ. Có nhiều tư tưởng tuyệt diệu hiện đại của
chúng ta rất gần gũi tương đồng với thông điệp của Ngài, tất cả những
đau khổ, bất mãn trong cuộc sống, theo Ngài dạy: là do lòng ích kỷ. Lòng
ích kỷ có ba dạng: - Một là tham vọng thỏa mãn cảm giác; - Hai là tham
vọng muốn bất tử; - Ba là tham vọng thành công và trần tục. Con người
trước khi có thể trở nên thanh tịnh, người đó phải ngưng sống theo giác
quan hoặc cho riêng chính mình.
Rồi
con người đó mới trở thành một bậc đại nhân. Ðức Phật, qua nhiều ngôn
ngữ khác nhau, năm trăm năm trước Chúa Christ, đã dạy con người đức tính
vị tha. Trong một số chiều hướng Ngài rất gần gũi với chúng ta hơn, và
đáp ứng được nhu cầu của chúng ta. Ðức Phật cũng tỏ ra sáng suốt hơn
Chúa Christ trong sự quan tâm phục vụ con người và ít mơ hồ đối với vấn
đề trường tồn bất tử của kiếp nhân sinh. [H.G. Wells].
Tôi
càng ngày càng cảm thấy đức Thích Ca Mâu Ni gần gủi nhất trong tính
cách và ảnh hưởng của Ngài, Ngài là Ðường lối, là Chân lý và là Lẽ sống.
[Ðức Giám mục Milman].
2. Trí tuệ siêu việt của Đức Phật
Lần
đầu tiên trong lịch sử thế giới, đức Phật tuyên bố sự giải thoát, mỗi
con người có thể đạt được do chính bản thân mình trong đời sống của mình
trên thế giới mà không cần đến sự giúp đỡ của Thượng đế hay thánh thần
nào. Ngài nhấn mạnh về giáo lý như lòng tự tin, thanh tịnh, nhã nhặn,
giác ngộ, an lạc và lòng thương yêu nhân loại. Ngài cũng nhấn mạnh đến
sự cần thiết của kiến thức, vì không có trí tuệ thì siêu linh nội tâm
không xâm nhập trong đời sống của Ngài được. [ Giáo Sư Eliot, "Phật giáo và Ấn Ðộ giáo"].
Ðức
Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến
thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần
linh và Người". Kiến thức của Ngài rất rõ ràng và độc lập không liên can
gì đến thần thoại và hoang đường. Tuy nhiên, nơi đây lại còn cho thấy
một hình thức vững vàng, tự nó biểu lộ được một cách rõ ràng và hiển
nhiên để cho con người có thể theo Ngài. Vì lý do đó, đức Phật không đòi
hỏi phải tin nhưng hứa hẹn kiến thức. [ George Grimm, "Giáo Lý của đức Phật"].
Lần
đầu tiên trong lịch sử loài người, đức Phật khuyến dụ, khẩn cầu và kêu
gọi con người không nên làm hại một sanh mạng, không nên dâng lời cầu
nguyện, lời ca tụng, hay hy sinh (sanh mạng) cho các Thần linh. Với tất
cả tài hùng biện trong sự thuyết giảng của Ngài, đấng Vô Thượng Sư có
lần hùng hồn tuyên bố là Thần linh, nói cho đúng, cũng cần đến sự giải
thoát cho chính họ. [Giáo Sư Rhys Dadis].
Ðức
Phật không giải thoát con người, nhưng Ngài dạy con người phải tự chính
mình giải thoát lấy mình, như chính Ngài đã tự giải thoát lấy Ngài. Con
người chấp nhận giáo lý của Ngài là chân lý, không phải giáo lý này đến
từ nơi Ngài, nhưng vì lòng xác tín cá nhân, thức tỉnh bởi những lời
Ngài dạy, trỗi dậy bởi ánh sáng trí tuệ của chính mình. [ Tiến Sĩ Oldenburg, Một học giả Ðức].
Dường
như người thanh niên bất diệt, hiền lành, ngồi khoanh chân trên hoa sen
thanh tịnh với bàn tay phải dơ lên như khuyên nhủ như trả lời: "Nếu con
muốn thoát khỏi sự đau khổ và sợ hãi, con hãy luyện tập trí tuệ và từ
bi". [Anatole France].
Sự khác biệt giữa đức Phật và một người bình thường giống như sự khác biệt giữa một người bình thường và một người mất trí.
[khuyet danh].
Nếu
chúng ta hỏi, chẳng hạn, có phải vị trí một hạt nhân điện tử lúc nào
cũng giữ nguyên không thay đổi, chúng ta phải trả lời "không"; nếu chúng
ta hỏi có phải vị trí của một hạt nhân điện tử thay đổi theo thời gian,
chúng ta phải trả lời "không"; nếu chúng ta hỏi có phải hạt nhân đó
đang di động, chúng ta phải trả lời "không". Ðức Phật cũng đã giải đáp
như vậy khi có người hỏi tình trạng bản ngã của con người sau khi chết;
nhưng những câu trả lời như trên không phải là những câu trả lời quen
thuộc theo truyền thống khoa học ở thế kỷ 17 và 18.
[J.Robert Oppenheimer].
Nếu
một vấn đề nào đó cần được đề ra, vấn đề đó phải được giải quyết trong
hài hòa và dân chủ theo đường lối dạy bảo của đức Phật. [ Thủ Tướng Nehru].
3. Cống hiến của Đức Phật với nhân loại:
Trong
thế giới giông tố và xung đột, hận thù và bạo lực, thông diệp của đức
Phật sáng chói như vầng thái dương rực rỡ. Có lẽ không bao giờ thông
diệp của Ngài lại thiết yếu hơn như trong thời đại của thế giới bom
nguyên tử, khinh khí ngày nay. Hai ngàn năm trăm năm qua đã tăng thêm
sanh khí và chân lý của thông điệp này. Chúng ta hãy nhớ lại bức thông
điệp bất diệt này và hãy cố gắng thi triển tư tưởng và hành động của
chúng ta trong ánh sáng giáo lý của Ngài. Có thể chúng ta phải bình thản
đương đầu cả đến với những khủng khiếp của thời đại nguyên tử và góp
phần nhỏ trong việc khuyến khích nghĩ đúng (Chánh tư duy) và hành động
đúng (Chánh nghiệp). [ Thủ tướng Nehru].
Trên
quả địa cầu này, Ngài đem ý nghĩa những chân lý giá trị trường cữu và
thúc đẩy đạo đức tiến bộ không chỉ cho riêng Ấn độ mà cho cả nhân loại.
Ðức Phật là một nhà đạo đức vĩ đại kỳ tài chưa từng thấy có trên hoàn
vũ. [Albert Schweitzer ]
Sự
thanh tịnh của tâm linh và lòng thương yêu tất cả sinh vật đã được dạy
dỗ bởi đức Phật. Ngài không nói đến tội lỗi mà chỉ nói đến vô minh và
điên cuồng có thể chữa khỏi bởi giác ngộ và lòng thiện cảm. [ Tiến Sĩ Radhakrisnan, "Ðức Phật Cồ Ðàm"].
Ðức
Phật không phải là của riêng người Phật tử, Ngài là của toàn thể nhân
loại. Giáo lý của Ngài thông dụng cho tất cả mọi người. Tất cả các tôn
giáo khai sáng sau Ngài, đều đã mượn rất nhiều các tư tưởng hay của
Ngài. [ Một học giả Hồi Giáo].
Khi
chúng ta đọc những bài thuyết giảng của đức Phật, chúng ta cảm kích bởi
tinh thần hợp lý của Ngài. Con đường đạo đức của Ngài ngay trong quan
điểm đầu tiên là một quan điểm thuần lý. Ngài cố gắng quét sạch tất cả
những màng nhện giăng mắc làm ảnh hưởng đến cái nhìn và định mệnh của
nhân loại. [Tiến Sĩ S.Radhakrisnan, "Ðức Phật Cồ Ðàm"].
Ðức
Phật là người cha nhìn thấy đàn con đang vui chơi trong ngọn lửa thế
tục nguy hiểm, Ngài dùng mọi phương tiện để cứu các con ra khỏi ngôi nhà
lửa và hướng dẫn chúng đến nơi an lạc của Niết bàn.
[ Giáo sư Lakshimi Narasu, "Tinh Hoa Của Phật giáo"].
4. Giáo pháp của Đức Phật:
Ðọc
một chút về Phật giáo là đã biết rằng hai ngàn năm trăm trước đây,
người Phật giáo đã hiểu rõ xa hơn và đã được thừa nhận về những vấn đề
tâm lý hiện đại của chúng ta. Họ đã nghiên cứu những vấn đề này từ lâu
và đã tìm thấy câu trả lời. [ Tiến Sĩ Graham Howe].
Phật
giáo chưa bao giờ ép ai theo dù dưới hình thức nào - hoặc ép buộc ý
tưởng và niềm tin đối với người không thích, hoặc bằng bất cứ một sự
tâng bốc nào, bằng lừa gạt hay ve vãn, hầu đoạt được thắng lợi để gia
nhập vào quan điểm riêng tư của mình. Những nhà truyền giáo của đạo Phật
không bao giờ thi đua để dành người quy nạp vào Ðạo như nơi chợ búa. [ Tiến sĩ G. P. Malasekara].
Chỉ
nói về Phật giáo thôi, ta có thể xác nhận là tôn giáo này thoát khỏi
tất cả cuồng tín. Phật giáo nhằm tạo trong mỗi cá nhân một sự chuyển hóa
nội tâm bằng cách tự chiến thắng lấy mình. Nhờ đến sức mạnh và tiền bạc
hay cả đến sự chinh phục để tác động mọi người vào đạo thì sao? Ðức
Phật chỉ rõ một con đường giải thoát duy nhất để cho cá nhân tự quyết
định nếu muốn theo tôn giáo này. [Giáo Sư Lakshmi Nasaru, "Tinh Hoa của Phật giáo"].
Không
thể cho rằng Phật giáo bị suy yếu, ngay hiện tại, vì Phật giáo bắt
nguồn trên những nguyên tắc cố định chưa bao giờ bị sửa đổi. [- Gertrude Garatt].
Mặc
dù người ta có thể được thu hút từ nguyên thủy bởi sự khoáng đạt của
tôn giáo này nhưng người ta chỉ có thể tán dương giá trị thực sự của
Phật giáo khi người ta phán xét kết quả tạo ra của tôn giáo này thông
qua đời sống của chính mình từ ngày này qua ngày khác. [ Tiến Sĩ Edward Conze, một học giả Phật giáo Tây Phương].
Phật
giáo là một tôn giáo tự giác, ít lễ nghi. Một hành động được thực thi
với chính sự suy tư thì tự nó đã điều kiện hóa để không còn là một nghi
lễ. Phật giáo nhìn bề ngoài có vẻ nhiều nghi lễ nhưng thực ra không phải
như vậy. [ Tiến sĩ W.F.Jayasuriya, "Tâm lý và Triết lý Phật giáo"].
Là
Phật tử hay không phải là Phật tử, tôi đã quan sát mọi hệ thống của các
tôn giáo trên thế giới, tôi đã khám phá ra không một tôn giáo nào có
thể vượt qua được về phương diện vẻ đẹp và sự quán triệt, Bát chánh đạo
và Tứ diệu đế của đức Phật. Tôi rất mãn nguyện đem ứng dụng cuộc đời tôi
theo con đường đó. [Giáo sư Rhys Davids].
Trên
những giải đất mênh mông của thế giới, vận mệnh nhân loại vẫn còn tồn
tại. Rất có thể trong sự tiếp xúc với khoa học Tây phương và cảm hứng
bởi tinh thần lịch sử, giáo lý căn bản của Ðức Cồ Ðàm được phục hưng và
thuần khiết, có thể chiếm một vị trí phần lớn trong hướng đi của vận
mệnh nhân loại. [- H.G.Well].
Lý
thuyết của Phật pháp vẫn đứng vững ngày nay không bị ảnh hưởng bởi tiến
trình của thời gian và sự tăng trưởng kiến thức, vẫn giữ nguyên như lúc
ban đầu bầy tỏ. Dù cho kiến thức khoa học tăng tiến đến thế nào trên
chân trời trí óc của con người, trong phạm vi Giáo pháp (Dhamma) cũng
vẫn có chỗ để thừa nhận và đồng hóa các khám phá xa hơn nữa. Về phương
diện thu hút của lý thuyết nầy không dựa vào các khái niệm giới hạn của
các tư tưởng sơ khai, về phương diện khả năng cũng không bị lệ thuộc vào
những phủ định của tư tưởng. [ Francis Story, "Phật giáo, Một Tôn Giáo Thế Giới"].
Phật
giáo là một phương thức làm sao để đạt được lợi lạc cao nhất từ cuộc
sống. Phật giáo là một tôn giáo của trí tuệ mà ở đấy kiến thức và thông
minh chiếm ưu thế. Ðức Phật không thuyết giảng để thâu nạp tín đồ mà là
để soi sáng người nghe. [- Một Văn Hào Tây Phương"].
"Nếu
có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì
đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập
nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải
từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm
cả khoa học cũng như vượt qua khoa học".
"Tôn
giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần
linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự
nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ
kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý
nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó".
[Albert Einstein].