Dẫn nhập:
Nói
đến sứ mạng Hoằng pháp là nói đến trách nhiệm cao cả của những người
con Phật, những người cùng tâm nguyện tu tập và truyền bá giáo pháp của
đức Thế Tôn. Tuy nhiên, giới cư sĩ Phật tử tại gia thường lấy việc hộ
trì Tam Bảo làm chính; còn hàng đệ tử xuất gia thì lấy việc “Hoằng dương chánh pháp, lợi lạc quần sanh” làm động cơ thúc đẩy trên bước đường tiến tu đạo nghiệp.
Trong đó, vị Trụ trì đóng vai trò rất quan trọng vào sứ mạng “Truyền trì mạng mạch Phật pháp” của đức Thế Tôn ở các trú xứ, cơ sở tự viện ... của Giáo hội tại địa phương. Chúng ta có thể xem những vị ấy là những “Sứ giả của đức Như Lai”.
Như
vậy, Trụ trì là những người nhận lãnh sứ mạng tiếp tăng độ chúng,
truyền trao giáo điển của đức Phật cho chúng hữu tình, làm sáng tỏ lời
dạy của Ngài, giúp cho đàn hậu tấn, giúp cho hội chúng Phật tử nhận thức
được đạo lý giác ngộ, giải thoát; hầu chuyển hóa tâm thức, tạo dựng một
đời sống an lạc và hạnh phúc ngay tại thế gian.
Những vị ấy thực hiện sứ mạng cao cả của mình trên tinh thần “vô ngã vị tha”, sẵn
sàng dấn thân phụng sự chánh pháp, phục vụ nhân sanh. Có thể nói, vị
Trụ trì là một sứ giả quan trọng đối với việc truyền bá chánh pháp của
đức Thế Tôn.
Quả thật, chỉ
những ai có tâm Bồ tát mới có thể hoàn thành sứ mạng cao cả của mình.
Cho nên, đối với các vị Trụ trì là những vị đã được Phật bổ xứ, thì việc
trước tiên là phải có một tâm nguyện rộng lớn, phải trải qua quá trình
học hỏi tu tập, phải hết lòng phụng sự chánh pháp, phục vụ chúng sanh,
thì mới có thể làm tròn được trọng trách “Tác Như Lai sứ, hành Như Lai
sự”.
I- NHẬN THỨC KHÁI QUÁT VỀ VAI TRÒ CỦA TRỤ TRÌ:
1- Trụ trì phải là Tăng ni như mọi Tăng ni khác:
1.1- Nhận lãnh trách nhiệm:
Dù
là một vị Trụ trì, nhưng trước tiên vị Trụ trì ấy phải là một Tăng ni
như mọi Tăng ni, hay nói đúng hơn vị ấy cũng có một đời sống sinh hoạt
và tu tập như các Tăng ni khác. Chỉ có điều là bản thân vị ấy đã nhận
lãnh sứ mạng, trọng trách của một vị Trụ trì, nên việc làm có phần gấp
bội. Vị ấy biết rằng mình đang đóng một vai trò vô cùng quan trọng,
nhưng đồng thời cũng biết mình đang thừa hành một nhiệm vụ vô cùng nặng
nề trong sự nghiệp: “Hoằng dương chánh pháp, lợi lạc chúng hữu tình” của đức Thế Tôn để lại.
1.2- Thể hiện đúng cương vị:
Muốn
thực hiện được trách nhiệm cao quý đó, việc trước tiên vị Trụ trì cần
lưu ý là phải thể hiện cho trọn vẹn cương vị của mình, tức là phải sống,
sinh hoạt và tu tập, biểu hiện được cách sống chân chánh của một Sứ giả
Như Lai. Muốn hoàn thành sứ mạng này, vị Trụ trì ấy phải luôn nương
theo tinh thần “Giới luật Phật chế”, để tổ chức guồng máy hoạt động, lấy “Lục hòa cộng trụ” để chia sẻ, dựa vào “Qui củ thiền môn” để làm
nếp sinh hoạt và hoằng truyền chánh pháp. Cụ thể như trong tứ oai nghi,
với cương vị của mọt vị Trụ trì, ta không thể đi đứng thô tháo, không
thể nói năng bừa bãi, hay đứng ngồi cẩu thả.
1.3- Giữ gìn nếp sống tập thể:
Tuy
không phải khắc khe, nhưng theo giáo luật của đức Thế Tôn, không thể
cho phép một vị Trụ trì trên bước đường hành đạo của mình, lại có thể
cách ly nếp sống tu học chung của Tăng đoàn. Bởi vì sức mạnh của Tăng
đoàn sẽ hỗ trợ rất nhiều cho vị Trụ trì, giúp họ luôn ý thức được trách
nhiệm cao cả của mình. Cũng vì vậy mà trong Giới kinh, đức Thế Tôn đã
nói: “ Hổ ly sơn Hổ bại, Tăng ly chúng Tăng tàn” để nhắc nhở hàng đệ tử của Ngài không được sống tách rời nếp sống của đoàn thể Tăng già, của Giáo hội hiện tại.
2- Trụ trì phải là một tu sĩ chuẩn mực:
2.1- Thể hiện tấm gương mẫu mực:
Đời sống và quá trình hành đạo của đức Phật là một tấm gương mẫu mực và thánh thiện nhất. Theo gương Ngài, chúng ta đã phát tâm xuất gia, được mệnh danh là: “Trưởng tử của Đức Như Lai”, nhất là nhận lãnh sứ mạng: “Tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự” của
một vị Trụ trì thì cần phải có một đời sống chuẩn mực. Chỉ khi nào thể
hiện được nếp sống chuẩn mực trong đời sống, mới phản chiếu được tấm
gương cao đẹp đến với mọi người. Hội chúng sẽ dễ dàng đồng thuận và thán
phục khi họ biết được vị Trụ trì ấy có được một đời sống thanh cao, đạo
hạnh trong chốn thiền môn. Từ sự sống thanh cao, đạo hạnh đó mới dần
dần phát sanh phước đức, trí tuệ. Nhờ có phước đức và trí tuệ mới có thể
nhiếp hóa chúng sanh, mới đảm đương nỗi trách nhiệm một vị Trụ trì.
Hình ảnh và nếp sống của vị Trụ trì sẽ là một bài thuyết pháp sinh động,
một liều thuốc vô cùng quí giá để cảm hóa đồ chúng và thuyết phục mọi
người trở về với chánh pháp.
3- Trụ trì phải có lý tưởng phụng sự Phật pháp:
3.1- Nhận lãnh một trách nhiệm nặng nề:
Nói
đến Trụ trì là nói đến những vị có nhiệt huyết hơn người, hay đúng hơn
là có trách nhiệm nặng nề hơn những vị tu sĩ bình thường khác; đang mang
trong mình một trọng trách rất là quan trọng của đức Thế Tôn giao phó,
của Giáo hội ủy nhiệm. Cho nên, chẳng những vị Trụ trì muốn đem chánh
pháp truyền trao cho nhân loại thắm đượm tinh thần từ bi, trí tuệ và vô
ngã của đức Thế Tôn mà còn muốn hoằng truyền chánh pháp ngày càng phổ
cập hưng thịnh, muốn xiển dương Phật pháp nơi trú xứ ngày càng trang
nghiêm thanh tịnh và phát triển hơn. Có lẽ vì thế mà mọi người, ai cũng
hiểu được trách nhiệm của vị Trụ trì là hết sức khó khăn và vô cùng cao
cả. Tăng ni và Phật tử cũng dành cho vị Trụ trì một tấm lòng hỗ trợ và
ưu ái biết bao. Tất cả những yếu tố ấy là liều thuốc khích lệ cho vị Trụ
trì càng nỗ lực hơn trên con đường thực hiện vai trò cao cả của mình.
3.2- Những yếu tố cần có của vị Trụ trì:
Chắc
rằng trong chúng ta, không ai dám phủ nhận ý nghĩa về lý tưởng phụng sự
Phật pháp của vị Trụ trì. Nhưng khi nói đến lý tưởng phụng sự Phật pháp
là muốn nói đến một tầm mức cao hơn và rộng hơn. Điều này có nghĩa là
vị Trụ trì thực thụ nhận lãnh trách nhiệm cao cả ấy, chẳng những thể
hiện được nhiệt huyết của một bậc xuất trần thượng sĩ như Tổ Qui Sơn đã
nói:
“Phù xuất gia giả,
phát túc siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long thánh chủng, chấn
nhiếp ma quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu” nghĩa là:“Người
xuất gia khi cất bước đi là muốn vượt lên phương trời cao rộng, tâm tánh
và hình dung khác hẳn thế tục, tiếp nối dòng giống Phật pháp, nhiếp
phục ma quân, để đền đáp bốn ân cùng cứu giúp 3 cõi”, mà còn cần
phải hội đủ một số yếu tố bắt buộc hơn nữa. Cần phải có một lý tưởng
giác ngộ giải thoát, cần phải biết hy sinh cho sự nghiệp hoằng truyền
chánh pháp; Cần phải có một tấm lòng phụng sự, cống hiến cao cả hơn nữa,
cống hiến theo sự điều hành của Giáo hội, vì lợi ích và an lạc cho số
đông, vì hạnh phúc và an lạc cho chư thiên và loài người.
Vì
sao như thế? Vì Trụ trì là phải trực tiếp đối diện bao nhiêu vấn đề
trong cuộc sống. Nào là giao tiếp xã hội, nào là tiếp xúc với Phật tử và
còn phải lo tiếp tăng độ chúng. Nói chung là vị Trụ trì phải đối nội,
đối ngoại, phụng sự cho Phật pháp phục vụ cho dân tộc, cống hiến hết sức
mình cho đời và cho cả người đã khuất. Cho nên, nếu không có tấm lòng
hy sinh phụng sự, không thực hiện đúng theo sự điều hành của Giáo hội
thì rất khó thành tựu trên bước đường hành đạo của mình.
3.3- Nói đến Trụ trì là nói đến sứ giả của Đức Như Lai:
Nói
đến Trụ trì là nói đến một trọng trách cao vời, nói đến một vai trò
được gọi là Phật bổ xứ, cho nên nói đến Trụ trì là nói đến một mẫu người
có lý tưởng phụng sự hơn người. Mà nói đến lý tưởng là nói đến một số
yếu tố mang tính hy sinh cao cả và cống hiến cao độ. Chúng ta vẫn biết
rằng, tất cả những tu sĩ Phật giáo đều là những vị thừa hành Phật sự,
truyền bá chánh pháp của đức Thế Tôn. Mặc dù những hoạt động Phật sự của
chư Tăng ni đều khắp mọi nơi nhưng vẫn chưa tập trung, biểu hiện cho
các hoạt động Phật sự cơ bản cho chánh pháp trường tồn. Khi nói đến Trụ
trì là nói đến những người chuyên trách, có bổn phận điều hành, gìn giữ
cơ sở tín ngưỡng của Giáo hội, là người trực tiếp hoằng truyền chánh
pháp, đưa chánh pháp đến với mọi người. Nói đến Trụ trì là nói đến những
vị đã xả thân phụng sự chánh pháp, phục vụ chúng sanh không biết mỏi
mệt. Nói đến Trụ trì là nói đến những “Sứ giả của đức Như Lai”,
nhận lãnh trọng trách của Ngài giao phó. Trong thời đại ngày nay, trọng
trách của vị Trụ trì càng nặng nề hơn nữa, bởi chẳng những họ là sứ giả
của Đức Như Lai trong ngôi nhà chánh pháp, là cán bộ cơ sở, cán bộ
trung kiên của Giáo hội, cán bộ cơ sở các tự viện mà còn phải vận dụng
như thế nào để truyền bá chánh pháp trong thời đại “Hội nhập và phát
triển”.
4- Trụ trì phải có tinh thần vô ngã vị tha:
4.1- Giải thích tinh thần vô ngã vị tha:
“Vô ngã vị tha” là tinh thần “mình vì mọi người”, tinh
thần của Bồ tát phát nguyện vì lợi ích cho chúng hữu tình, vì sự an lạc
và hạnh phúc cho tha nhân, sẵn sàng xả thân phụng sự chánh pháp, phục
vụ nhân sanh, không kể gian lao, chẳng từ khó nhọc. Bởi vì vô ngã là
không chấp ngã, là không chấp vào cái ta nhỏ bé của mình. Tuy nhiên, dù
nói nhỏ bé nhưng chính nó là nhân tố chủ yếu để giúp chúng ta đạt đến
quả vị giác ngộ, giải thoát. Đồng thời cũng chính cái ta nhỏ bé này, nó
cản ngăn chúng ta thành tựu sự nghiệp hay đưa đẩy ta bước vào con đường
tội lỗi, khổ đau. Vì thế, là vị Trụ trì cần phải tu tập như thế nào, sử
dụng cái ta nhỏ bé này ra sao để trên bước đường hành đạo, giáo hóa
chúng sanh thể hiện được tinh thần vô ngã vị tha thì mới đem đến cho mọi
người niềm an vui thật sự.
4.2- Vận dụng tinh thần vô ngã vị tha:
Chúng ta thường nghe nói: “Cái này là ta, cái kia là của ta, cái nọ là tự ngã của ta”.Những cái ta, của ta ấy là đầu mối của mọi phát sinh vui khổ trên cuộc đời. Kinh Pháp Cú, Đức Phật đã nói rất rõ ý này như sau:
“Con ta tài sản ta
Người ngu sanh ưu não.
Tự ta, ta không có
Con đâu tài sản đâu.”
PC. 62
Ý thức được việc ấy, một vị Trụ trì khi giáo hóa độ sanh cần phải vận dụng cho thật nhuần nhuyễn tinh thần “Vô ngã vị tha”. Chẳng
những khi giáo hóa không thấy mình giáo hóa, khi phụng sự không thấy
mình phụng sự mà còn phải thấy được bản chất của pháp không giáo hóa
không phụng sự nữa. Khi ấy, chúng ta mới không bị những cái ta làm
chướng ngại trên bước đường truyền trao chánh pháp của đức Thế
Tôn. Không thể nào có một vị Trụ trì lo cho chúng tăng tu học yên ổn, lo
cho phật tử an vui hướng đạo mà lại đi kể công lao, lại than khổ cực.
Hay là cố chấp vào cương vị của mình, cho rằng mình là người Trụ trì thì
mọi người phải cung kính, lo lắng cho ta … Như thế thì đâu còn ý nghĩa
một vị Trụ trì chân chánh, không thể hiện được tinh thần vô ngã vị tha
của người con Phật. Hình ảnh Đức Thế Tôn ngồi bên đường xâu kim cho một
cụ già, mà không hề nghĩ rằng mình là bậc tôn quý, là Thầy của trời
người. Chính điều đó đã cho ta thấy rõ tinh thần vô ngã vị tha của bậc
xuất trần thượng sĩ thể hiện trên bước đường giáo hóa là như thế nào.
II- NHỮNG YẾU TỐ CƠ BẢN CỦA MỘT TRỤ TRÌ:
1- Trụ trì phải là người có phong cách thoát tục:
1.1- Phong cách của vị Trụ trì là quan trọng nhất:
Trong
cuộc sống thường nhật, hội chúng Phật tử thường quan sát và nhận xét vị
Trụ trì ở nhiều góc độ. Từ vóc dáng, cử chỉ, điệu bộ cho đến phong cách
ứng xử, trình độ tu tập, cũng như phương pháp hành trì của vị Trụ trì
... Tất cả những gì liên quan đến cuộc đời của vị Trụ trì đều được đem
ra bình phẩm. Tuy nhiên, trong các yếu tố ấy, đời sống cá nhân hay nói
cách khác là phong cách biểu hiện ra bên ngoài của một vị Trụ trì là
điều quan trọng hơn hết. Một vị Trụ trì không thể không có một “Phong cách thoát tục” hay một “Đời sống mẫu mực”. Bởi không có một đời sống mẫu mực hay không có một “Phong cách thoát tục” thì
không thể tạo cho hội chúng tu tập niềm tin tưởng và không thể khiến
hội chúng thực hiện theo những gì mình hướng dẫn. Trong Qui Sơn cảnh
sách cũng đã nói đến vấn đề này: “Đường đường Tăng tướng, dung mạo khả quang”, để tán dương hàng đệ tử xuất gia, những bậc trưởng tử của Đức Như Lai tướng hảo tuyệt vời.
1.2- Trau giồi phong cách của vị Trụ trì là cần thiết:
Sự trau dồi “Phong cách thoát tục” là
yếu tố cần thiết của một vị Trụ trì. Những ai muốn dấn thân trên con
đường hành đạo, có hoài bão muốn giáo hóa chúng sanh, thiết tha với
trách nhiệm cao cả của một Trụ trì, hầu mong thực hiện tâm nguyện: “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh” thì việc trước tiên là cần phải có một nếp sống mẫu mực hay phải biểu hiện cho được “Phong cách thoát tục” của
mình. Nhớ lại hình ảnh Đức Thế Tôn khoang thai bước đi mà cũng đã giáo
hóa được chàng Vô Não. Điều đó đã cho ta bài học quý báu về phong cách
của vị Trụ trì. Trong khi chàng Vô Não thì đuổi chạy không ngừng nghỉ,
nhưng không thể nào đuổi kịp bước chân thanh thoát của Ngài; thì hình
ảnh tự tại thể hiện qua phong cách thoát tục đó mà Ngài đã chuyển hóa
được tâm ác của Vô Não. Nhưng phong cách ấy phát xuất từ đâu? Đó là từ
sự tu tập nội tâm. Khi tâm thanh thoát, không để cho phiền não tham,
sân, si chi phối thì sẽ biểu hiện ra phong cách bên ngoài. Tổ Quy Sơn có
dạy: “Hữu tâm vô tướng, tướng tự tâm sanh”.
1.3- Ứng dụng phong cách ấy như thế nào:
“Phong cách thoát tục” là
phong cách của một bậc thượng nhân. Sống, tu tập, thừa hành Phật sự
trên tinh thần giác ngộ, giải thoát. Chẳng hạn như khi chúng ta gặp một
người có thái độ vô đạo đức, có những lời thô lỗ đối với chúng ta, thì
ít ra chúng ta cũng phải thể hiện phong thái điềm đạm, ứng xử hòa nhã.
Chẳng những chúng ta phải “Nói năng như chánh pháp, im lặng như chánh pháp”mà
còn phải biết hành xử như chánh pháp đối với người ấy. Chỉ có như thế
mới có thể cảm hóa và chuyển đổi được tâm thức của người ấy một cách
trọn vẹn, hay nói cách khác là mới có thể làm cho người ấy tâm phục khẩu
phục. Từ đó, họ mới chấm dứt được tâm trạng xấu ác, không còn những cử
chỉ vô lễ nữa. Nếu qua sự việc như vậy mà vị Trụ trì không thể biểu lộ
được ngay một phong cách nhu hòa, đạo vị thì làm sao có thể khuyên dạy
người khác nghe theo. Trong kinh Tăng Nhất A Hàm – Phẩm Lực thứ 31 – Đức
Phật đã dạy: có sáu thứ sức mạnh thông thường mà chúng tôi nghĩ, vị Trụ
trì có thể nhận chân để ứng xử trong cương vị của mình:
1- Trẻ con lấy tiếng khóc làm sức mạnh, muốn đòi điều gì trước tiên nó khóc lên.
2- Người nữ lấy giận hờn làm sức mạnh, trước dựa vào sự giận hờn rồi sau mới nói.
3- Bậc Sa môn, Bà La môn thường dùng nhẫn nhục làm sức mạnh, thường nghĩ đến khiêm hạ với người, rồi sau đó mới tự giải bày
4- Quốc vương dùng sự kiêu ngạo làm sức mạnh, dùng uy thế để ban truyền quân lệnh.
5- Bậc A La Hán dùng sự chuyên tinh làm sức mạnh để tự trần thuyết.
6- Chư Phật Thế Tôn thành tựu Đại từ bi, dùng Đại từ bi làm sức mạnh, làm lợi ích rộng lớn khắp chúng sanh.
Có
lẽ chúng ta đã biết vị Trụ trì nên lấy sức mạnh nào để hóa độ chúng
sanh. Theo bước chân hoằng hóa của Đức Thế Tôn, nên vị Trụ trì phải lấy
Đại từ bi để thành tựu sự nghiệp giáo hóa của mình. Vì thế, vị Trụ trì
phải luôn luôn thể hiện sự hoan hỷ, hòa nhã, điềm tỉnh và nhu hòa trong
mọi tình huống.
2- Nắm vững ý nghĩa của tứ vô ngại biện:
2.1- Tứ vô ngại biện là gì ?:
Trước
tiên, chúng ta cùng thống nhất với nhau cụm từ Tứ vô ngại biện. Tứ vô
ngại biện còn gọi là Tứ vô ngại trí. Tứ vô ngại trí là bốn thứ trí vô
ngại của Bồ tát sử dụng trong lúc thuyết pháp. Đứng trên phương diện ý
nghiệp thì gọi là Tứ vô ngại trí, còn đứng trên phương diện khẩu nghiệp
mà nói thì gọi là Tứ vô ngại biện.
Tứ vô ngại biện là:
1. Pháp vô ngại,
2. Nghĩa vô ngại,
3. Từ vô ngại,
4. Lạc thuyết vô ngại,
2.2- Giải thích tứ vô ngại:
- Pháp vô ngại: Là
đối với giáo pháp phải thông hiểu tường tận về danh, cú, văn nên khi
thuyết pháp giảng giải các pháp xuyên suốt không bị chướng ngại.
- Nghĩa vô ngại: Là đối với nghĩa lý thâm diệu của giáo pháp, giảng giải thấu suốt và tường tận, không bao giờ bị bế tắc.
- Từ vô ngại: Là ngôn từ được tự tại, tùy ngôn ngữ của từng chủng loại, từng địa phương nên khi thuyết pháp không bao giờ bị trở ngại.
- Lạc thuyết vô ngại: Là do có đủ ba trí vô ngại trên, nên khi thuyết pháp được tự tại, hỷ lạc.
Kinh Niết Bàn, Đức Thế Tôn đã nói: “Bồ tát ma ha tát năng như thị tri, đắc Tứ vô ngại”.
2.3- Tầm quan trọng của Tứ vô ngại biện:
Bốn
pháp vô ngại được sử dụng trên bước đường giáo hóa độ sanh mang một ý
nghĩa rất quan trọng. Chúng ta thấy rằng, dù đó là vị Trụ trì nổi tiếng
hay là một vị Trụ trì bình thường, nếu muốn thực hiện sứ mạng của mình
trên con đường giáo hóa chúng sanh, chúng ta cũng cần phải thông hiểu
giáo nghĩa văn cú tường tận, mới không bị chướng ngại trong lúc giáo hóa
độ sanh. Vì nhiều khi không cần lên bục giảng, mà vị Trụ trì có thể
giáo hóa trực tiếp cho những người đến chùa lễ Phật. Khi họ hỏi ta về
Phật pháp, nếu không giảng giải rõ ràng, thông suốt thì làm sao thuyết
phục được họ, làm sao tạo được niềm tin cho họ. Nhất là trong thời đại
ngày nay, đội ngũ tri thức cũng đang dần dần hướng về tìm hiểu Phật
pháp, tìm hiểu triết lý vừa sâu xa, vi diệu mà cũng vừa hiện thực của
Phật giáo. Vì thế, vị Trụ trì cần phải thâm nhập Phật pháp. Có thể nói,
vị Trụ trì chính là người đầu tiên làm trọng điểm để cho họ tìm đến tham
vấn đạo pháp.
Bước theo con
đường giáo hóa của chư Phật, chư Tổ, chúng ta cần phải nỗ lực, tinh tấn
nghiên tầm giáo nghĩa và tiến tu hơn nữa. Nhưng nên nhớ là học và tu
phải song hành với nhau. Bởi nếu: “Tu mà không học là tu mù, học mà không tu là đãy sách”.
Câu
nói ấy, văn từ hơi thô thiển, nhưng rất có ý nghĩa trong việc tu tập,
hành trì và truyền bá chánh pháp của một vị Trụ trì trong thời đại ngày
nay. Nhất là cho những ai muốn nhận lãnh một sứ mạng cao cả; muốn làm
tròn sứ mạng “Trụ pháp vương gia, trì như Lai tạng” của đức Thế Tôn giao phó thì cần phải chiêm nghiệm, cần lấy đó làm châm ngôn nhắc nhở tự thân.
2.4- Ứng dụng tinh thần Tứ vô ngại biện:
Đối
với Pháp và Nghĩa vô ngại biện, vị Trụ trì dù không thông hiểu tường
tận cả nguồn giáo pháp của Đức Thế Tôn, nhưng ít ra những những khái
niệm, những luận cứ Phật pháp cơ bản, chúng ta cần phải nắm vững. Những ý
pháp căn bản để tu tập mang đến lợi ích thiết thực trong đời sống hằng
ngày, chúng ta cần phải lãnh hội. Như tinh thần ý nghĩa tổng quát của
các bộ kinh, các pháp môn tu tập, chúng ta cần phải thông suốt. Không
thể nào một vị Trụ trì mà không nắm bắt ý pháp, lỡ khi có ai hỏi đến thì
lòng cảm thấy ray rức băng khoăng. Xưa kia, Tổ Quy Sơn đã từng lưu ý
rằng: “… Giáo lý vị thường thố hoài, huyền đạo vô nhơn khế ngộ”, để rồi “Tương hà thúc liễm hậu côn, tân học vô nhân phỏng hiệu”. Nghĩa là: “… Giáo lý chưa từng để lòng, chổ huyền đạo nhân đâu khế ngộ” để rồi “… Lấy gì thúc liễm đàn em, tân học nương đâu bắt chước…”.
Đối
với Từ và Lạc Thuyết vô ngại biện, thì bản thân mỗi vị Trụ trì cần hiểu
rõ ngôn ngữ từng vùng, từng địa phương. Bởi có những nơi thuộc vùng sâu
vùng xa, nếu ta không sử dụng đúng ngôn ngữ của họ, cứ chấp chặt vào
tiếng nói của mình thì ta nói gì, họ chẳng hiểu được. Đặc biệt là ở
trong nội tự, vị Trụ trì không nên phân biệt tiếng miền nầy, miền khác.
Vì như thế sẽ tạo ra sự chia rẽ địa phương, bè nhóm. Cho nên, là vị Trụ
trì, dù không sử dụng được ngôn ngữ của địa phương khác thì cũng khéo
léo, không nên bắt chước hoặc chế nhạo khiến cho lòng người bất mãn.
Do
vậy, mỗi vị Trụ trì chúng ta cần nắm rõ tinh thần Tứ vô ngại biện nầy
để ứng dụng cho phù hợp và có hiệu quả trên bước đường hoằng hóa của
mình.
3- Trụ trì phải là người có đạo lực uyên thâm:
Sở
dĩ một số Trụ trì thành công, được hội chúng Phật tử ngưỡng mộ, tin
tưởng, hoan nghênh là nhờ vị ấy có được một đạo lực uyên thâm, hàm chứa
nhiều ý nghĩa sâu xa, đáp ứng được tấm lòng ngưỡng mộ của hội chúng và
khơi mở được tâm hồn của tín đồ Phật tử.
Ở
thế gian, nhà văn, nhà thơ hay nhà nghệ sĩ họ phải viết và biểu diễn
như thế nào cho có hồn trong bài viết, trong bài ca trong vở kịch của
họ, người họa sĩ phải vẽ ra sao cho có thần trong bức vẽ của mình mới có
thể khiến quần chúng độc giả, khán thính giả khâm phục. Là một vị Trụ
trì, chúng ta phải lưu ý đến ý nghĩa này. Tức là cần phải có phương cách
hướng dẫn hội chúng tu tập như thế nào để cho sự trao truyền của mình
có thể nhiếp phục được hội chúng.
Khi
nào nhiếp phục được hội chúng thì vị Trụ trì ấy mới làm tròn sứ mạng
của mình. Muốn làm được việc này, đòi hỏi vị Trụ trì ấy phải có đạo lực
uyên thâm. Chính tinh thần uyên thâm này mới là yếu tố chủ yếu để nhiếp
hóa được hội chúng Phật tử về tu học.
Thế
nhưng, để có đạo lực uyên thâm thì vị Trụ trì phải có quá trình tu học
lâu dài, phải thông suốt nội điển, phải am hiểu ngoại điển, phải hết
lòng phụng sự tha nhân, nhất là phải ứng dụng cho được tinh thần Phật
chất trong cuộc sống tu tập, trong con đường hoằng pháp độ sanh.
Được
như vậy, chúng ta mới có thể vận dụng giáo pháp của đức Thế Tôn đi vào
cuộc đời một cách nhuần nhuyễn, không hề bị chướng ngại và từ đó mới dễ
dàng khiến cho hội chúng kính phục và hết lòng tu học. Cho nên, nếu
không có quá trình tu tập, hành trì chánh pháp, không am hiểu nội điển
lẫn ngoại điển thì khó mong đạo lực ngày càng uyên thâm.
Ví
như khi một vị Trụ trì dạy cho hội chúng phương pháp chuyển hóa sân
hận. Muốn cho hội chúng tiếp thu và thực hiện có hiệu quả thì trước hết
vị Trụ trì phải làm gương thực hiện. Nhưng phương pháp hướng dẫn đó phải
thể hiện đúng lời Phật dạy, thực tế và có thể mang đến lợi ích thiết
thực trong hiện tại và tương lai.
Việc
này đòi hỏi vị Trụ trì ấy phải có quá trình tu tập và thực nghiệm bản
thân mới có thể ứng dụng tinh thần giáo điển một cách nhuần nhuyễn. Có
nghĩa là vị Trụ trì chẳng những phải chuyển hóa mọi sân hận trong thân
tâm mình mà còn thể hiện trong sinh hoạt một phong thái từ bi, tự tại.
Không thể vừa đứng chỗ này khuyên người Phật tử không nên sân hận, vừa
quay qua chỗ kia ta lại tỏ thái độ sân giận với người khác.
Vị
Trụ trì cũng không được nói suông, nói suông thì không bao giờ có tác
dụng đối với hội chúng. Trong Kinh Pháp cú đức Phật đã nêu lên một bài
kệ để diễn tả điều này rất chuẩn mực. Là Trụ trì, chúng ta nên lấy đó
làm thước đo trên bước đường phụng sự của mình. Bởi một hình ảnh đẹp hơn
một ngàn lời nói hay:
“Như bông hoa tươi đẹp
Có sắc nhưng không hương
Cũng vậy lời khéo nói
Không làm không kết quả
Hoặc:
Như bông hoa tươi đẹp
Có sắc lại thêm hương
Cũng vậy lời khéo nói
Có làm có kết quả “
III- BA HÌNH THỨC GIÁO HÓA CỦA VỊ TRỤ TRÌ:
1- Giáo hóa qua Thân giáo:
Xã
hội càng tiến bộ thì xã hội ấy càng phát minh ra nhiều công cụ vật chất
tinh xảo. Càng phát minh ra những công cụ vật chất tinh xảo thì càng
tạo ra những sản phẩm hiện đại để đáp ứng cho nhu cầu sinh hoạt của loài
người. Trong công cuộc hoằng pháp độ sanh, chúng ta cũng đã sử dụng có
hiệu quả các công cụ vật chất ấy để truyền trao Phật pháp đến với mọi
người. Nhưng dù sử dụng công cụ gì đi nữa thì sự hiện diện trực tiếp của
vị Trụ trì vẫn là vấn đề quan trọng bậc nhất. Vì chính sự hiện diện của
vị Trụ trì đã có tác động rất mạnh mẽ đến hội chúng tu tập. Nhớ lại khi
còn làm điệu, cùng với đại chúng tụng kinh, tâm trí có phần giải đải,
nhưng khi thấy bóng dáng vị Trụ trì là chúng ta có thể nhất tâm tu tập
và tinh tấn hơn.
Nếu một vị Trụ
trì có quá trình tu học uyên thâm, có phẩm chất đạo đức cao quí, có sự
giác ngộ tinh tường, có sự lão luyện trên pháp tòa thì đó là những yếu
tố tuyệt vời, tạo được nét đặc thù, giúp cho vị Trụ trì ấy hoàn thành sứ
mạng cao cả của mình một cách tốt đẹp. Nhưng nếu vị Trụ trì mà không
hoàn thành sứ mạng của mình, cũng đồng nghĩa với việc chưa trao truyền
được tinh thần giáo điển của đức Phật đến với mọi người. Như thế thì dù
là vô tình hay cố ý, vị Trụ trì ấy cũng đã trao truyền cho thời đại một
sản phẩm không hoàn thiện, không đem lại lợi ích gì cho đời, cho đạo và
cho tất cả chúng sanh. Vì ngay bản thân hành đạo của vị Trụ trì cũng
chính là bài pháp không lời rất quí giá, có tác dụng giáo hóa đồ chúng
mạnh mẽ.
Thế nên, Trụ trì là
danh xưng của những người con Phật đã phát tâm cống hiến đời mình cho
Phật pháp, sẵn sàng trao truyền cho đời những tinh ba giáo điển mà mình
đã liễu ngộ. Nhưng phải trao cho đời một sản phẩm hoàn thiện, lợi đạo
ích đời, giúp đời thêm thăng hoa. Do đó, dù cho ở trên cương vị nào, ở
trên phương diện nào, Trụ trì cũng vẫn là một Tăng ni như mọi Tăng ni
khác, nên cần phải nỗ lực ngày đêm, phát tâm tu tập dõng mãnh, nghiên
tầm giáo điển, tiến tu tam vô lậu học, hầu có thể nắm bắt mọi tinh hoa
giáo điển của Đức Thế Tôn.
Nhưng
đời sống của vị Trụ trì ấy hay nói cách khác là thân giáo chính là một
biểu tượng mẫu mực không thể không gây được ấn tượng đạo hạnh trên bước
đường cảm hóa tha nhân. Làm tròn được trọng trách cao quí ấy cũng có
nghĩa là đã thuyết giảng được một bài pháp vô cùng quí giá, không những
đã đáp ứng được tấm lòng mong mỏi của hội chúng mà còn không phụ lòng kỳ
vọng của Thầy Tổ và Tăng ni Phật tử đang mong đợi ở chúng ta.
2- Giáo hóa qua khẩu giáo:
Nhà
văn, nhà thơ, nhà viết kịch hay nhà gì đi nữa cũng chẳng thể sánh với
nhà tu. Tại sao vậy, tại vì các nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch đó họ
chỉ làm có một việc, một nhiệm vụ quan trọng là họ lo viết bài cho thật
hay, thật có ý nghĩa, nhằm phản ánh truyền trao kiến thức, cách sống,
sinh hoạt lại cho cuộc đời, còn bản thân học thì sao cũng được. Nhưng
đối với nhà tu thì mọi sinh hoạt đều chứa đựng một ý nghĩa cao quí, nhứt
cử nhứt động đều là một biểu tượng, một tấm gương cho đời noi theo.
Chẳng
những các hoạt động của vị Trụ trì đã giải quyết được công tác sinh
hoạt Phật sự hàng ngày mà còn góp phần trang nghiêm Phật cảnh tại thế
gian. Nếu nhà tu đó còn là một vị Trụ trì nữa thì ngoài việc thừa hành
Phật sự tại các tự viện ra, còn phải viết lách, biên soạn giáo điển để
truyền bá chánh pháp, họ còn sử dụng ngôn từ, khẩu thuyết để giáo hóa
chúng sanh.
Thuyết phục được
một người đã khó, huống hồ thuyết phục được cả một hội chúng tại trú xứ
lại càng khó hơn. Do đó, ngôn từ của vị Trụ trì phải là ngôn từ được
chọn lọc chính xác và thể hiện được tinh thần Phật chất của đức Thế Tôn.
Không nên dùng ngôn ngữ quá thế tục, không tế nhị trong quá trình giáo
hóa của mình.
Ngày xưa, lời dạy của đức Phật được xuất phát từ “kim khẩu” của Ngài. Nhưng không phải ngẫu nhiên mà chúng ta dùng từ “kim khẩu” để chỉ cho những gì do chính từ miệng Ngài nói ra. Từ “Kim khẩu” mà
chúng ta muốn nói ở đây là vì lời dạy của đức Thế Tôn nói ra đều mang
đến cho chúng sanh niềm an lạc và hạnh phúc, chẳng những cho hôm nay mà
còn mãi về sau.
Là Trụ trì, không thể nào nói năng thô lỗ, không thể nói toàn danh từ thế gian. Có những vị thường nói đùa với nhau rằng: “Ăn cơm Phật thì phải nói lời Phật”. Câu nói ấy nếu chúng ta biết ứng dụng trong quá trình truyền giáo thì tinh thần Phật chất sẽ đến với mọi người nhiều hơn.
Vì
vậy, ngày nay chúng ta cũng cần lưu ý và thận trọng khi sử dụng ngôn từ
của mình trong quá trình thừa hành Phật sự của đức Thế Tôn. “Nói năng như chánh pháp, im lặng như chánh pháp”, có lẽ đó là lời nhắc nhở, biểu trưng rất chính xác, rất quan trọng cho ý nghĩa này.
3- Giáo hóa qua ý giáo:
Thân
giáo, khẩu giáo đóng vai trò quan trọng biết bao trên con đường giáo
hóa của một vị Trụ trì, nhưng ý giáo lại là điều thiết yếu hơn cả. Ý
giáo có lúc không biểu lộ ra bên ngoài, không phô bày trước hội chúng
Phật tử. Nhưng ý giáo có một tác động sâu thẳm vô cùng. Bởi vì ý giáo là
thể hiện tâm ý giáo hóa của một vị Trụ trì. Tâm ý hay tâm nguyện của
một vị Trụ trì là muốn trao truyền tinh thần giáo điển của đức Thế Tôn
mà mình đã liễu đạt đến với mọi người. Mong cho chánh pháp được trang
trải đến với chúng sanh và đem lại sự an lạc, hạnh phúc cho muôn loài.
Ngoài
ra, ý giáo còn được biểu hiện qua ý chí và hành động của một vị Trụ
trì. Dù không nói một lời nào nhưng hầu như đã nói lên tất cả những gì
mà vị Trụ trì ấy muốn nói. Đôi lúc, chính ý giáo đã tác động đến hội
chúng Phật tử, khiến cho hội chúng tinh tấn, phát tâm tu học dõng mãnh
hơn nhiều.
Ngày xưa, khi đức Thế Tôn còn tại thế, Ngài đã truyền trao “Chánh pháp nhãn tạng”cho
Ngài Ma Ha Ca Diếp cũng trên tinh thần này. Truyện kể khi đức Phật cầm
cành hoa sen đưa lên để khai thị cho hội chúng, toàn thể hội chúng lặng
yên, chỉ có Ngài Ma Ha Ca Diếp là mỉm cười chúm chím (phá nhan vi tiếu). Đức Phật nhận thấy liền ấn chứng cho Ngài Ma Ha Ca Diếp đắc truyền và làm Tổ thứ nhất – Sơ Tổ thiền tông Ấn Độ có từ đó.
Có thể nói, đây là một phương pháp “Giáo ngoại biệt truyền” điển
hình của đức Thế Tôn qua ý giáo thời bấy giờ và là phương pháp vô tiền
khoáng hậu, từ xưa đến nay chưa từng có. Chúng ta phải vận dụng tinh
thần này như thế nào trong quá trình truyền trao giáo pháp của mình. Có
những lúc, chúng ta phải dùng lời nói, biện pháp, kỷ luật để xử phạt, để
nhắc nhở, nhưng có lúc chúng ta chỉ im lặng, không nói lời nào cũng là
phương pháp giáo hóa vô cùng hiệu quả. Tuy nhiên, khi nào sử dụng phương
pháp im lặng, khi nào phải dùng biện pháp nhắc nhở, đó là việc chúng ta
cần lưu ý để thực hiện cho đúng lúc đúng thời.
IV- CẦN CÓ MỘT ĐỊNH HƯỚNG TRÊN BƯỚC ĐƯỜNG GIÁO HÓA:
Định
hướng mà chúng ta muốn nói ở đây chính là phương hướng tu tập, sinh
hoạt như thế nào cho phù hợp với nếp sống của một đòan thể, sống theo
lời dạy của đức thế tôn. Khi xưa đức Phật chưa đề cập đến từ định hướng,
nhưng thật ra thì chính sinh hoạt, giáo hóa, hình ảnh hiện hữu của Đức
Phật là một định hướng điển hình. Mỗi ngày Ngài thức dậy mấy giờ, rồi
Ngài phân chia ra từng giờ giấc sinh hoạt cụ thể. Ngày nào cũng như ngày
ấy, phải chăng đó là một định hướng muôn đời cho chúng ta nương theo tu
tập. Tuy nhiên, trong định hướng chúng ta có thể chia ra định hướng gần
và lâu dài.
1- Xây dựng một định hướng gần:
Xây
dựng một định hướng gần là chúng ta phải có kế hoạch từng ngày, từng
tuần, từng tháng, từng năm … về sinh họat của tự viện ... mình.
Chính
vì ý nghĩa cao tuyệt này, chúng ta cần phải có một định hướng cho sự
nghiệp giáo hóa của mình. Định hướng ấy phải chính do vị Trụ trì hoạch
định ra, không ai có thể làm thế cho vị ấy được. Vì chỉ có vị Trụ trì
mới có thể vạch ra một định hướng phù hợp với sinh hoạt tu học, truyền
bá chánh pháp tại trú xứ của mình. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể dựa
trên một số nguyên tắc như sau:
1.1- Liệt kê những Phật sự chủ yếu trong năm:
a- Các Phật sự cơ bản:
Tổ
chức các ngày lễ lớn trong năm như: Lễ Phật Đản, Vu Lan, Phật Thành
Đạo, Tết Nguyên Đán, Rằm tháng giêng, rằm tháng tám, rằm tháng mười … là
những ngày lễ mà giới Phật giáo chúng ta tổ chức rất long trọng. Cho
nên, trong các khóa lễ này, chúng ta phải có kế hoạch cụ thể và thông
báo rộng rãi cho hội chúng thông suốt. Lên kế hoạch hay xây dựng một
định hướng ở đây, tức là chúng ta phải có phương thức và chuẩn bị cho
hoàn tất. Ví dụ như khi tổ chức Lễ Vu Lan, chúng ta phải làm gì, tổ chức
lễ này cho ai, thành phần nào sẽ về tham dư … để chúng ta dự liệu mọi
vấn đề và nếu có thuyết giảng thì chúng ta cũng có nội dung cho phù hợp.
Sau khi lên kế họach xong cần xem lại vài lần để bổ sung những gì còn
thiếu sót, những gì không cần thiết sẽ thay đổi cho phù hợp với thực tế.
Kiểm điểm lại các mặt ưu khuyết về mặt tổ chức, về cúng kiến, về tiếp
đãi, về trang trí …
b. Các Phật sự thường nhật:
Các
khóa lễ cầu an, cầu siêu, ma chay, phúng viếng, xã giao, chúng ta cũng
cần có một quyển sổ tay đễ ghi chép các vấn đề này. Không phải chỉ để
ghi tên, thời gian, địa điểm, mà chính là để ghi lại những mặt tốt xấu,
những vấn đề đã làm được, những vấn đề cần phải làm thêm, những vấn đề
còn yếu kém trong công việc tổ chức, phân công, ứng xử, tiếp xúc, thông
báo, lễ nghi và thực hiện …
c. Các Phật sự đột xuất:
Các
Phật sự này lúc có, lúc không, nhưng trong một năm cũng thường xảy ra,
như thiên tai lũ lụt, ủng hộ người nghèo, người già neo đơn, cấp học
bổng cho học sinh nghèo hiếu học, … vị Trụ trì cũng cần để tâm ủng hộ,
chia xẻ và thực hiện có kế hoạch, nhằm kêu gọi, vận động một số mục
thường xuyên, để cho hoạt động Phật sự của chùa thêm phần ý nghĩa về mặt
góp phần lợi ích thiết thực cho cuộc sống xã hội hiện tại.
Ví
dụ như tặng quà tình nghĩa cho người nghèo khó, neo đơn, già cả … mỗi
năm chúng ta nên làm định kỳ trong các ngày lễ lớn như Vu Lan, Phật Đản,
Tết Nguyên đán … ít nhiều chúng ta cũng cố gắng thể hiện. Chớ nên nghĩ
và nói: Lo cho mình còn không nỗi mà còn lo cho ai. Chúng ta là nhà
truyền giáo, là người đại diện cho một tổ chức Giáo hội địa phương, làm
lợi ích cho tha nhân nên chúng ta phải cố gắng thực hiện cho được được
sứ mạng mà chúng ta phát nguyện gánh vác.
2- Xây dựng môt định hướng lâu dài:
Ngoài
những định hướng hàng ngày, hàng tháng, hàng năm, chúng ta cũng cần xây
dựng một định hướng lâu dài. Cụ thể như tạo cho chúng đệ tử một phương
hướng học tập cũng như tu niệm phù hợp với khả năng từng người. Bằng
cách ba năm ta làm gì? Năm năm ta làm gì? Thể hiện qua các phương diện:
tu tập, nghiên cứu, giảng dạy, viết báo tường, từ thiện, xây dựng, trùng
tu, … Kế hoạch lâu dài và thường xuyên như phát thưởng, sách tấn, chúc
thọ, thi cử, tặng nhà tinh thương, nhà tình nghĩa … Tổ chức tu Bát Quan
trai, mở lớp giáo lý hay tu Phật thất, tụng kinh Pháp hoa một ngày … Năm
nay tổ chức chưa được thì chuẩn bị cho năm tới. Phải luôn suy nghĩ và
tìm mọi cách để cho sinh hoạt tu tập của trú xứ mỗi ngày mỗi đổi mới và
đa dạng.
3- Nhận thức như thế nào cho đúng chánh pháp:
Hình
ảnh nhà truyền giáo ban đầu là đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Sau khi thành
đạo, sản nghiệp của Ngài chỉ có 3 y và một bình bát, lấy gốc cây làm
nhà, lấy sương gió làm chiếu chăn, lấy trăng thanh gió mát làm đạo bạn.
Thế nhưng, cuộc đời của Ngài đi đến đâu cũng in đậm dấu ấn của một nhà
truyền giáo mẫu mực, tận tụy, hết lòng vì đồ chúng, vì lợi ích chúng
sanh.
Lời dạy của Ngài được xem
như là tiếng chuông cảnh tỉnh, đã đánh thức được bao tâm hồn còn mê ngủ
trong trần thế. Ngài đã khuyên các hàng đệ tử của Ngài “Hãy ra đi
vì lòng từ bi, vì sự thương tưởng, vì lợi ích cho đời, vì hạnh phúc và
an lạc cho số đông … hãy rao giảng chánh pháp đến với mọi người”. Quả
thật, đây là bức thông điệp sách tấn của Ngài, đã thôi thúc hàng triệu
triệu trái tim, sẵn sàng hiến dâng đời mình cho sứ mạng hoằng truyền
chánh pháp mà đức Thế Tôn phó thác.
Theo
bước chân Ngài, các vị Tổ sư, các Thánh đệ tử đã đem đạo giác ngộ của
Ngài truyền bá khắp nơi. Ngày nay, đạo giác ngộ ấy như cây đại thọ tỏa
mát khắp nhân gian, bén rễ thấm sâu vào trong tâm khảm của những người
con Phật trên thế giới. Tiếp nối chí nguyện của Ngài, chúng ta cần ý
thức được trọng trách cao cả của mình, nên lấy“Sứ mạng hoằng pháp” làm động cơ giáo hóa; lấy tinh thần “Vô ngã vị tha” làm phương châm hoạt động; lấy “Báo Phật ân đức” làm thước đo hóa độ.
Chính
tinh thần này sẽ nhắc nhở chúng ta cần phải nghiên tầm giáo điển cho
thâm sâu, trau dồi đạo hạnh cho sáng ngời, gìn giữ giới luật cho tinh
nghiêm. Nếu không như thế thì chẳng khác nào như người đi thám hiểm
không gian mà không có la bàn, như người muốn vượt sông biển mà không có
thuyền bè. Cũng vậy, muốn qua bờ giác mà không phát tâm, tinh tấn, dõng
mãnh tu học thì làm sao có thể thực hiện được tâm nguyện cao cả của
mình.
Đức Phật đã từng nói: “Chánh pháp còn bỏ đi huống hồ là phi pháp”. Quả thật, lời dạy này đã khơi nguồn cho chúng ta một ý niệm vô cùng sâu sắc. Ngoài ý nghĩa sâu xa của nó như đức Phật đã nói: “Ta nói pháp trong 49 năm nhưng chẳng nói lời nào”.
Chúng ta còn có thể hiểu một cách khác có tính vận dụng hơn, nhưng
chúng ta không có quyền chấp chặt vào chánh pháp hoặc không được quyền
cố chấp vào lời dạy của đức Phật. Nếu chúng ta chỉ biết rằng những gì
đức Phật dạy là hoàn toàn đúng, còn tất cả những thứ khác đều là sai.
Chúng ta không biết rằng làm như thế là đã hiểu sai lời dạy của Ngài.
Hoặc nếu cứ chấp chặt vào những công thức, những quy luật truyền giáo từ
xa xưa để áp dụng cho ngày nay thì sẽ bị lạc hậu, không còn phù hợp với
sự tiến hóa của thời đại.
Việc
chánh pháp được hiểu một cách sai lệch bằng cách này hay cách khác, đã
được đức Thế Tôn phân tích, chỉ dạy rất nhiều trong Kinh tạng. Đức Phật
cũng đã gợi ý cho chúng ta biết một khái niệm khác hết sức đặc biệt, đó
là vấn đề phi pháp.
Ở đây, vấn
đề chúng ta muốn đề cập là tại sao đã là chánh pháp mà đức Thế Tôn còn
bảo phải bỏ đi. Nếu Chánh pháp còn phải bỏ đi, thì lấy gì làm giềng mối
cho chúng ta nương tựa trên bước đường tiến tu đạo nghiệp? Có lẽ đức
Phật nhắc nhở cho chúng ta chớ nên cố chấp vào những sự đúng, sai để rồi
bám chặt vào đó, gây đau khổ cho cuộc đời và đôi lúc cũng cần xem xét
mặt trái của vấn đề để có cơ sở hiển bày thực chất của sự vật. Phải
chăng đó cũng là lý do mà đức Phật muốn gợi cho chúng ta lưu ý đến những
phương cách ứng xử như thế nào cho được toàn diện, toàn mỹ và lợi ích
thiết thực hơn.
Chúng ta đừng
cố chấp vào nhận thức đúng đắn của mình, đừng cho việc mình làm là phù
hợp với Chánh pháp mà không chịu lắng nghe sự góp ý hay quan điểm khác
biệt của mọi người. Dù là lời dạy của đức Thế Tôn đi nữa nhưng nếu chúng
ta ứng dụng chưa đúng lúc, đúng thời hay chưa khế lý khế cơ thì Chánh
pháp cũng trở thành phi pháp.
Không
phải ngẫu nhiên mà chư vị Tổ sư đã trao truyền cho chúng ta một phương
châm hành động vô cùng ý nghĩa. Phương châm mà chúng ta ứng dụng vào
trong thời đại nào và ở đâu cũng có giá trị, đó là “Tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên”. Mong rằng trên bước đường hành đạo của mình, ai ai cũng vận dụng được tinh thần của phương châm ấy.
Ngoài
ra, chúng ta cũng cần thấy rõ khái niệm của pháp phi pháp hay pháp
không đúng với chánh pháp mà đức Phật đã lưu ý. Trên bước đường tu tập
và nghiên tầm giáo điển, vị Trụ trì cũng cần nhận rõ được các pháp chưa
đúng, có thể đưa đến hiểm nguy. Nếu vị Trụ trì chưa nhận chân được đâu
là chánh pháp, đâu là phi pháp thì ngay cả việc trao truyền cho hội
chúng còn chưa thực hiện được huống hồ là phải bỏ đi. Cho nên là một vị
Trụ trì, chúng ta chẳng những phải nhận thức cho chính xác những gì
thuộc về chánh pháp mà còn phải hiểu cho thật chính xác thế nào là phi
pháp.
Đứng ở góc độ này thì cho
việc ấy là chánh pháp, nhưng ở trên góc độ khác thì cho đó là phi pháp
hoặc ngược lại. Điều này muốn nói lên rằng tất cả mọi việc đều bắt nguồn
từ cuộc sống hiện tại. Phải đứng trên lập trường của hiện tại mà phán
xét mọi vấn đề. Như vấn đề đi chân đất khất thực để giáo hóa mà đức Phật
ngày xưa đã ứng dụng, nếu thời đại này mà chúng ta vẫn còn duy trì cách
ấy thì không còn phù hợp nữa, không phù hợp chứ không phải là pháp bất
thiện. Như thế, mọi việc chúng ta đều phải xem xét kỹ càng. Nếu việc ấy
có đem lại lợi ích thiết thực trong cuộc sống hiện tại và lâu dài về sau
thì đó chính là chánh pháp. Còn nếu việc ấy luôn mang đến cho cuộc sống
những nỗi bất hạnh, khổ đau trong đời này và đời sau thì không thể nói
là chánh pháp mà gọi đó là phi pháp.
Hơn
nữa, Chánh pháp cũng chỉ là một pháp biểu hiện cho chân lý chứ vốn nó
cũng chẳng phải là chân lý. Chân lý phải do nơi sự thật tu, thật chứng,
thực nghiệm của từng vấn đề cụ thể, chứ chân lý không thể đem ra giải
bày, dùng ngôn từ mà có thể nói lên cho hết được. Hiểu được như thế,
chúng ta mới không bị lệ thuộc vào ngôn ngữ văn tự, không bị ngôn ngữ
văn tự khống chế và tâm ta mới có thể tự tại trong khi truyền bá giáo lý
của đức Thế Tôn.
Giáo pháp mà
chúng ta nói ở đây là những bài pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng
cách đây hơn 25 thế kỷ. Dẫu thời gian lâu xa như thế, nhưng đã được chư
Thánh đệ tử kết tập thành ba tạng giáo điển và được truyền thừa từ ngàn
xưa cho đến ngày nay.
Là đệ tử
của Ngài, chắc chắn chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa. Tuy nhiên, để
cho đại đa số nhân loại tin được, thấy được, hiểu được, nhận chân được
lời dạy của Ngài, quả là một vấn đề nan giải, cần được trao đổi, bàn bạc
nhiều hơn và cụ thể hơn. Nói như thế không có nghĩa là từ trước đến bây
giờ không có trao đổi, không có bàn bạc, không có tổ chức hội thảo,
không có đại hội kết tập và giáo pháp của đức Phật không được truyền bá
đến với mọi người.
Điều chúng
ta muốn nói ở đây là trong thời đại ngày nay, chúng ta cần phải có một
giải pháp tuyền bá giáo pháp của Ngài như thế nào, một phương thức vận
dụng ra sao cho phù hợp, linh hoạt, dễ tiếp nhận và có lợi ích thiết
thực hơn. Phù hợp ở đây có nghĩa là phương thức hành trì đó có khả năng
thuyết phục, chỉ đạo và chuyển hóa mọi sinh hoạt của xã hội; sống theo
tinh thần giáo điển của đức Thế Tôn mà không cảm thấy bị chướng duyên,
khó xử trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của mình. Trình bày lời dạy
của Ngài như thế nào để cho mọi người chẳng những hoan hỷ, sẵn sàng chấp
nhận mà còn mỗi khi nhắc đến, đọc đến, nghe đến ai ai cũng cảm thấy
thích thú, xem đó là những lời dạy chân chính, là khuôn vàng thước ngọc
không thể thiếu và đem đến lợi ích cho đời sống của họ.
Trong
các phương pháp của Đức Phật, chúng ta thấy có pháp Tứ Tất Đàn, như là
một trình tự để cho chúng ta ứng dụng trong quá trình truyền trao chánh
pháp của Ngài. Quả thật, Tứ Tất Đàn là phương pháp có thể làm thước đo,
phương tiện cho chúng ta vận dụng trao truyền chánh pháp đúng căn cơ
trình độ của từng đối tượng. Nhưng chúng ta cần nên vận dụng một cách
sinh động, cần lên một phương án tổng quát và chuyên đề, cần có một định
hướng rõ ràng để tạo điều kiện cho chúng ta tập trung nghiên cứu, giảng
dạy, truyền bá được dễ dàng và xuyên suốt hơn. Thế nhưng, dù có vận
dụng như thế nào cũng phải phù hợp với từng trú xứ của mình, rồi mới có
định hướng chung trên con đường truyền giáo.
Ví
dụ như dựa trên tinh thần của Tứ tất đàn, chúng ta có thể liệt kê, kết
tập hoặc biên tập chuyên đề về từng phần mục trong Tứ Tất đàn ấy.
Những gì thuộc về Thế giới tất đàn thì ta tập trung vào mục Thế giới tất đàn;
Những gì thuộc về Các các vị nhơn tất đàn thì ta tập trung vào phần mục Các các vị nhơn tất đàn;
Những gì thuộc về Đối trị tất đàn thì ta tập trung vào Đối trị tất đàn;
Những gì thuộc về Đệ nhất nghĩa tất đàn thì ta tập trung vào Đệ nhất nghĩa tất đàn.
Như
khi nói về cuộc đời đức Phật lịch sử thì chúng ta nên nói chuyên đề về
cuộc đời hiện thực của Ngài. Tất cả những dẫn chứng thuyết phục nhất về
quá trình sanh ra lớn lên, xuất gia tầm đạo, giác ngộ giải thoát và
truyền trao giáo pháp ra sao. Chúng ta đều tập trung nêu bật ý
nghĩa cao cả về sự kiện ấy thì cũng là một ý nghĩa huyền diệu trong cuộc
đời của đức Phật. Không cần phải tô son hay thếp vàng, vì như thế có
khi làm mất đi ý nghĩa xác thực của nó.
Có
những lúc, nhờ vào những điều xác thực đó mà có thể minh chứng cho cuộc
đời hoằng pháp của chúng ta thêm hùng hồn và trác tuyệt. Bởi đời sống
của Ngài là một bằng chứng hiển nhiên cho nền giáo pháp khả thi, khả
hành, khả chứng của Ngài. Giáo pháp ấy đã đến với mọi người, vượt qua cả
thời gian và không gian.
Từ
xưa cho đến nay, những ai để tâm nghiên cứu đến cuộc đời của Ngài đều
cảm kích, thán phục và thấy thanh thoát tâm hồn. Có thể nói rằng chúng
ta không tìm đâu ra một vị đạo sư toàn diện, toàn bích hơn như thế được.
Cho nên, khi dẫn chứng chúng ta cần lưu ý để không bị thiên lệch về một
bên nào. Dẫu thế, chúng ta cũng không quên đi yếu tố siêu việt của
Ngài.
Cũng chính vì thế mà đức Thế Tôn mới lưu ý cho hàng đệ tử của Ngài là: “Chánh pháp còn phải bỏ đi huống hồ là phi pháp”, nhằm nhắc nhở cho chúng ta không nên cố chấp vào việc đúng sai của đời, để rồi bị chúng sai khiến mãi.
V- VAI TRÒ CHỦ YẾU CỦA TRỤ TRÌ:
1- Tâm nguyện của một Trụ trì:
Trong
tất cả các ngành nghề ở thế gian, ngành nghề nào cũng có đặc tính riêng
của nó. Chính đặc tính nầy giúp cho ngành nghề ấy có mặt, tồn tại và
phát triển. Đối với vị Trụ trì thì đặc tính đó chính là tâm nguyện của
họ. Tâm nguyện rộng lớn bao nhiêu giúp cho họ thành công trên bước đường
giáo hóa bấy nhiêu. Tâm nguyện ở đây, chúng ta có thể hiểu một cách
khái quát là những ước mơ thầm kín, những phát nguyện phải làm, những
hoài bão trăn trở của đời tu, muốn đem chánh pháp của đức Phật truyền
trao cho muôn người, muốn cho chúng sanh ai ai cũng được giác ngộ, giải
thoát.
Nếu trên bước đường giáo
hóa độ sanh mà vị Trụ trì không phát khởi tâm nguyện hay không thực
hiện được nguyện lực thì theo thời gian, vị Trụ trì đó sẽ đánh mất đi lý
tưởng cao đẹp của mình và sự nghiệp giáo hóa không còn ý nghĩa nữa. Cho
nên, việc phát khởi tâm nguyện rộng lớn chẳng những là điều tiên quyết
để cho vị Trụ trì hoàn thành sứ mạng của mình mà còn là chất liệu thôi
thúc vị Trụ trì luôn luôn ý thức được trọng trách cao cả mà mình đang
gánh vác.
2- Mối quan hệ giữa vị Trụ trì với hội chúng:
Thông
thường khi nói đến mối quan hệ, người ta thường nói đến mối quan hệ
huyết thống trong gia đình, trong dòng họ hay trong xã hội với nhau. Ở
đây chúng ta đề cập đến mối quan hệ giữa vị Trụ trì với hội chúng.
Khác
với mối quan hệ bình thường, quan hệ giữa vị Trụ trì với hội chúng Phật
tử là mối quan hệ về tinh thần, là mối quan hệ không cùng chung huyết
thống. Hay nói cụ thể hơn đó là mối quan hệ qua lăng kính của những
người con Phật, có chung một lý tưởng hướng thượng, một lý tưởng giải
thoát, dựa trên tinh thần nghiên cứu, học hỏi, tu tập, phụng sự Phật
pháp và phục vụ chúng sanh. Do đó, nó đòi hỏi mối quan hệ này phải có
một tầm mức đặc biệt và cao hơn thế thường. Có nghĩa là mối quan hệ này
không dựa trên những nguyên tắc đã có mà nó được dựa trên mối quan hệ
giữa một vị Trụ trì với tín đồ mà mình hướng dẫn tu học.
Cho
nên, khi nắm giữ cương vị Trụ trì, cũng có nghĩa là vị ấy đã thay Phật
truyền trao cho hội chúng Phật tử giáo pháp của Ngài, truyền trao những
gì mà vị Trụ trì ấy đã lãnh hội, khiến cho hội chúng cảm phục, phát tâm
tu học, lần hồi bước vào con đường thánh thiện.
Với
cương vị của vị Trụ trì, chẳng những họ có thể tác động đến hội chúng,
dấy lên một phong trào học Phật, khiến hội chúng phát tâm tu học mà còn
tạo dựng cho một thế hệ có chánh tín đối với Phật pháp, hết lòng kính
tin và phát tâm hộ trì Tam Bảo.
Vì
vậy, ngoài nhiệm vụ trọng yếu của một vị Trụ trì là truyền trao chánh
pháp của đức Phật đến với hội chúng, họ còn phải đúc kết cho được những
lời dạy của đức Thế Tôn, những kinh nghiệm góp nhặt được từ các bậc cao
Tăng thạc đức, những tinh hoa bí quyết của nhân loại đã tích lũy nhiều
đời, để làm tư lương, chỉ dạy, kích khởi tinh thần hiếu học, hiếu tu ở
trong hội chúng, giúp họ thấy được chân lý giác ngộ, giải thoát của đức
Thế Tôn.
Không ai trong xã hội,
kể cả những người thân thích nhất của họ có thể làm được việc đó. Chỉ
có vị Trụ trì mới đủ pháp lý hướng dẫn, tạo dựng cho hội chúng Phật tử
một khí thế hồ hởi, một tinh thần phấn khởi, một phong trào học Phật lớn
mạnh, một sự phát tâm tu tập, một nhận thức sâu sắc trong cuộc sống và
trên bước đường tiến tu đạo nghiệp.
Đặc
biệt, đối với hội chúng xuất gia tu học trong tự viện, thì mối quan hệ
của vị Trụ trì với hội chúng ấy càng sâu sắc hơn. Lúc ấy, vai trò của vị
Trụ trì rất quan trọng trong cuộc đời của chúng đệ tử. Vị Trụ trì vừa
đóng vai trò là người Thầy, người Cha luôn thương yêu dạy dỗ, định hướng
cho chúng đệ tử hướng đi trên con đường Phật pháp, vừa đóng vai trò như
người Mẹ hiền luôn gần gũi khuyên răn, che chỡ cho đệ tử, chia sẻ những
niềm vui, nỗi buồn cho chúng. Bên cạnh đó, vị Trụ trì còn như một nhà
tâm lý, biết rõ tâm tư tình cảm của từng đứa để khuyên dạy chúng thật
tốt. Có những lúc, vị Trụ trì còn như người anh, người chị, người bạn,
nhằm tạo cho chúng đệ tử không khí tu học thoải mái. Nói chung vị Trụ
trì phải khéo léo trong mọi hoàn cảnh, phải tạo được một không khí tu
học thanh thoát, an tịnh trong chốn thiền môn. Làm sao cho mọi người đều
xem đó như là một gia đình tâm linh, cùng yêu thương, cùng nâng đỡ trên
con đường Phật pháp rạng ngời.
Do
đó, sứ mạng của vị Trụ trì là sứ mạng cao cả và độc nhất vô nhị, được
thể hiện qua định hướng tu tập, sinh hoạt thanh thoát nơi chốn thiền
môn. Chắc chắn chúng ta không thể nhìn thấy được kết quả trong một sớm
một chiều. Nhưng điều mà chúng ta có thể khẳng định là từ trong trái tim
của những người đệ tử, của hội chúng Phật tử có duyên với vị Trụ trì,
họ đang từng bước hình thành một thế giới quan và nhân sinh quan sinh
động, linh hoạt và thánh thiện hơn.
3- Trụ trì là người trực tiếp giáo hóa hội chúng:
Lời
dạy của đức Thế Tôn dù có cao quí, có lợi ích đến đâu, có giá trị như
thế nào, nếu không có những người kế thừa dõng mãnh truyền bá, giải bày
thì lời dạy ấy có thể bị mai một. Từ đó cho chúng ta thấy lực lượng kế
thừa truyền trao giáo pháp của đức Thế Tôn rất là quan trọng, trong đó
vai trò của vị Trụ trì là một sứ giả không thể thiếu trên bước đường
hoằng truyền chánh pháp của Ngài. Vì sao vậy? Vì chính vị Trụ trì là
người trực tiếp chỉ dạy cho hội chúng, nhận thấy được, hiểu được, biết
được thế nào, chỗ nào, nơi đâu là lời dạy chân chính, vận dụng như thế
nào cho có lợi ích thiết thực và đem lại an lạc, hạnh phúc cho chúng
sanh.
Hơn thế nữa, vị Trụ trì
còn là một bộ phận thừa hành Phật sự có nhiệm vụ giảng giải, đúc kết,
truyền đạt những tinh hoa giáo điển của đức Phật đến các thế hệ nối
tiếp. Mọi người có lãnh hội được hay không, có biến lời dạy của đức Phật
thành nhận thức của mình hay không, một phần lớn là tùy thuộc vào cách
thức giáo hóa của vị Trụ trì có thuyết phục được hội chúng hay không.
Do
vậy, vị Trụ trì đóng vai trò rất quan trọng trong sứ mạng truyền trao
chánh pháp, hướng dẫn Tăng ni và Phật tử tại cơ sở tự viện. Vị Trụ trì
là chủ thể, tác động như thế nào đó để cho hội chúng thừa nhận, tiếp thu
được những lời dạy của đức Phật. Từ đó, biến những chất liệu đã được
tiếp thu thành những hiểu biết, nhận thức của mình, ứng dụng vào sự tu
học vào trong cuộc sống, làm sao cho có ý nghĩa và phát huy hơn nữa tính
chất thánh thiện của người con Phật.
Như
khi vị Trụ trì hướng dẫn cho hội chúng pháp môn bố thí. Hội chúng tiếp
nhận được, hiểu được ý nghĩa của việc bố thí là đem lại lợi ích thiết
thực hiện tại và quả báo tốt đẹp trong tương lai như thế nào, giúp cho
mọi người thể hiện được tình người ra sao. Từ đó hội chúng nghe pháp tự
phát tâm tu tập, chuyển hóa những tâm niệm hẹp hòi, ích kỷ lâu nay của
mình, mở rộng lòng vị tha đến với mọi người. Nhờ vậy mà con người có
điều kiện gần gũi nhau hơn, quan tâm đến đồng loại nhiều hơn, cuộc sống
cảm thấy có ý nghĩa, an lạc và hạnh phúc hơn.
Qua
đó, còn có thể cho chúng ta thấy, vị Trụ trì đã biến quá trình hướng
dẫn của mình thành quá trình tự tiếp nhận và hình thành một nhân cách
thánh thiện cho hội chúng Phật tử. Thực hiện được việc này, vị Trụ trì
chính là gạch nối giữa lời dạy của đức Phật và người học Phật. Biến lời
dạy của đức Phật cách đây 2549 năm (tính từ năm 2004) thành cách sống,
cách làm, cách nhìn của những người học Phật trong thời đại ngày nay.
Đây
là một sứ mạng vẻ vang, nhưng đồng thời cũng là một trách nhiệm nặng nề
không đơn giản, không dễ dàng thực hiện. Việc này muốn thành công, vị
Trụ trì chẳng những phải nắm vững một số yếu tố tinh ba của đức Thế Tôn
đã chỉ dạy, một số kinh nghiệm đã đúc kết được từ các vị Tổ sư để lại mà
còn phải xem, phải hiểu một cách chính xác, đầy đủ những đặc điểm và
trình độ phát triển của xã hội, nhất là về mặt kiến thức và đạo đức của
chúng đệ tử tại bổn tự, của hội chúng Phật tử chung quanh chúng ta.
Để
thực hiện được việc này, bắt buộc vị Trụ trì phải có quá trình học tập
nghiêm túc, trau dồi nghệ thuật chuyên môn, nắm vững các phương pháp lý
luận, các phương pháp truyền đạt, mới có thể hoàn thành sứ mạng cao cả
của mình một cách vinh quang.
VI- KẾT LUẬN:
Với “Vai trò của một vị tru trì” đã
được khai triển bằng những tiết mục cụ thể và sơ bộ như trên, chỉ mới
cho ta những khái niệm nhận thức chủ yếu về vai trò, trách nhiệm của một
vị Trụ trì, phải làm gì trên bước đường hoằng pháp trong thời đại ngày
nay. Điều nầy chính là nói đến vai trò của một vị Trụ trì phải có sự
nhận thức như thế nào đó cho phù hợp với xu thế phát triển của xã hội
hiện tại. Chúng ta chưa dám lạm bàn xa hơn, rộng hơn; vì vị Trụ trì đóng
một vai trò cao cả, nhận lãnh một sứ mạng trọng đại, thiêng liêng: “Tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự” của Đức Thế Tôn đã giao phó.
Do
đó, còn rất nhiều vấn đề nữa, cần đề cập và luận bàn nhằm xây dựng một
hệ thống lý luận sâu sắc và toàn diện hơn. Tuy nhiên, chúng tôi mong
những gì trình bày hôm nay sẽ nói lên được một vài nhân tố chính yếu.
Thiết nghĩ đây chỉ mới là một số khái niệm cơ bản về vai trò của vị Trụ
trì mà chúng tôi xin lạm bàn, hầu mong chư tôn đức bổ sung những gì còn
khiếm khuyết.
Thế nhưng, điều
mà chúng ta muốn nói ở đây là vị Trụ trì phải làm sao để định hướng,
vạch ra được một phương thức hoằng pháp; phải có sự nhận thức sâu sắc về
vai trò và nhiệm vụ của một vị Trụ trì đối với đồ chúng và sự tồn vong
của Phật pháp có liên quan đến vị Trụ trì như thế nào. Hiểu rồi, mới có
thể xả thân phụng sự lý tưởng xuyên suốt và trung thành với sứ mạng: “Tác Như Lai sứ hành Như Lai sự” mà đức Thế Tôn đã giao phó. Đó là điều mà mọi người luôn trông đợi ở chúng ta.
Tài liệu thuyết giảng tại khóa bồi dưỡng Trụ trì BTSTHPG Tiền Giang - 2005
HOANGPHAPTW.COM