đã nhấn mạnh
đến vai trò của Phật giáo trong việc bảo vệ môi trường, mà cụ thể là việc trồng
cây và gìn giữ cây xanh.
Trồng cây, gìn giữ cây
xanh không phải là điều mới, thậm chí là điều bình thường, nhưng lâu nay trong
giới Phật giáo, việc làm này ít được nhắc đến, và thậm chí có chiều hướng đi
ngược lại ở một số nơi. Vì vậy, người viết bài quan tâm đến lời nhắc nhở, sách
tấn của thượng tọa Bảo Nghiêm về một việc tưởng chừng như hết sức bình thường
như thế, trong sự chia sẻ, đồng cảm.
Trong tinh thần đó,
chúng tôi hướng đến việc tìm kiếm những đề tài cụ thể xoay quanh vấn đề cổ động,
khuyến khích việc trồng cây, tạo cảnh quan cây xanh đối với giới Phật giáo.
Trong tiếng Việt, có một
từ khá đặc biệt, là “cảnh chùa”, người Nam Bộ thường phát âm là “kiểng chùa”.
Bà tôi sinh thời khi nhắc đến chùa chiền nói chung, vẫn dùng từ “kiểng chùa”,
thay vì “ngôi chùa”. Khi tôi hỏi tại sao bà hay nói “kiểng chùa”, tôi nghĩ rằng
bà nói vậy thì người ta không hiểu, nghĩ là cây kiểng (tức cây cảnh) ở chùa thì
sao? Bà tôi chỉ trả lời, “vì ông bà mình nói vậy”. Bà bảo, chùa luôn phải đi
đôi với cây kiểng, nói “kiểng chùa” thì đầy đủ hơn là ngôi chùa.
Tôi còn nhớ chỉ hiểu lờ
mờ là bà nói “kiểng chùa”, tức phải hiểu chùa không chỉ là chính điện hay nhà tổ…,
mà gồm cả phần đất của chùa chung quanh, thường là rất nhiều cây cối.
Tiếp xúc với ông bà của
các bạn lúc đó, tôi vẫn nghe cách nói tương tự. Hòn non bộ, được một cụ ông nghệ
nhân gắn bó với nghề nghiệp làm sản phẩm mang tính nghệ thuật này, gọi là “hòn
non kiểng”, và những “hòn non kiểng” của ông làm luôn có trên đó một vài “kiểng
chùa”, như cụ vẫn nói.
Lớn lên, được đi thăm
viếng lễ bái ở xa hơn khu dân cư mình ở, tôi mới có dịp hiểu hơn vì sao bà tôi
gọi là “kiểng chùa”, thay vì ngôi chùa. Chùa Pháp Hoa (quận Phú Nhuận, nơi Hòa
thượng Như Niệm trụ trì) lúc bấy giờ, những năm 1970, vẫn là một ngôi chùa gắn
liền với tuổi thơ của tôi. Tôi vẫn nhớ đến cảnh chùa rợp bóng cây xanh, với tượng
Phật A Di Đà trong vườn, nơi tôi vẫn thường hay đến cúi đầu chào bái ngày trước
khi đi dạo quanh chùa, để cảm thụ không gian chùa, hiểu vì sao bà tôi dùng từ “kiểng
chùa” thay vì ngôi chùa.
Chùa Pháp Hoa ngày nay
đã được xây lớn, nhưng vẫn giữ được không gian cây xanh chung quanh, tức vẫn là
một “kiểng chùa”, giữa một vùng dân cư đông đúc. Chùa vẫn còn là hình mẫu “kiểng
chùa” mà ông bà ta hay nói đến.
Nói “kiểng chùa”, vì
ông bà mình nói vậy! Ngày nay, tôi hiểu đó là quan niệm truyền thống của người
Việt Nam xưa về ngôi chùa. Chùa cũng là một “ngôi”, nhưng cũng là một “kiểng”.
“Kiểng chùa” hay “cảnh
chùa” là một từ, không phải là một cụm từ. Thành tố “kiểng” hay “cảnh” trong
“kiểng chùa” hay “cảnh chùa” chỉ có thể có nét nghĩa như vậy trong một tổ hợp cố
định (tức là đơn vị từ) như thế. Người ta không nói “kiểng đền”, “kiểng miếu”,
hay “kiểng nhà thờ”… Còn khi nói cảnh nhà thờ, một tổ hợp không cố định, tức cụm
từ, thì cách hiểu đã hoàn toàn khác. Đó là cảnh quan một nơi, không còn nghĩa
chỉ một nơi, như trông “kiểng chùa” hay “cảnh chùa”.
Đưa bạn đọc dông dài
qua những kiến thức ngôn ngữ học như vậy, cuối cùng thì cùng về lại chỗ “ông bà
mình nói vậy”. Trong cách nghĩ của người Việt xưa, chùa rất khác với bây giờ,
nhất là kiểu chùa phổ biến ở Sài Gòn nay.
Nói “kiểng chùa” hay cảnh
chùa vì chùa nhất thiết phải là một không gian cây cảnh (không nên hiểu như từ “cây
cảnh” bây giờ, thường chỉ là cây nhỏ để chơi). Cây cảnh trong chùa xưa là cây cối
tạo cảnh trí, cây cao, cây to, cây nhỏ đủ loại, là một phần không thể tách rời
của ngôi chùa.
Chùa Nam hay chùa
Trung, chùa Bắc xưa cũng thế. Kiến trúc có thể rất nhỏ. Chính điện chỉ đủ chỗ
vài mươi người lễ bái cùng lúc, nhưng không gian cây cối bao quanh rộng hơn đến
vài chục lần. Không bao giờ chùa cất trên một bãi đất trống, mà bao giờ chung
quanh đều phải rợp bóng cây xanh.
Chùa Khmer cũng vậy.
Ngày nay, đại đa số
chùa Khmer vẫn còn giữ được nét văn hóa đó. Chung quanh chánh điện chùa Khmer
là một rừng cây nhỏ. Chủng loại cây thường là loại cây lớn, thuộc vào loại cao
hơn cây thường thấy trong chùa của người Kinh, vốn phổ biến là loại cây thấp
tán, có hoa, có trái, có hương thơm.
Tôi luôn hình dung chùa
trong từ “kiểng chùa” (hay “cảnh chùa”), vì “ông bà mình nói vậy” là một ngôi
chùa với kiến trúc chính điện chỉ thấp thoáng, hiện ra một phần dưới bóng cây
xanh. Như cách cụ ông làm “hòn non kiểng” đặt những ngôi chùa sứ trên những giả
sơn: luôn khuất sau những rặng cây thường là “um tùm” theo cách của non bộ,
không bao giờ phơi trần hoàn toàn ra ngoài. Ông cụ vẫn giải thích “chùa như vậy
mới là chùa”.
Chắc rằng, “ông bà mình”
không quan niệm trước chùa phải trống trải hoàn toàn, để kiến trúc chùa phô ra
như một tòa dinh thự.
Có phải vì ngày xưa
chưa có khả năng để cất những ngôi chùa đồ sộ, hoành tráng, mà chỉ có kiến trúc
là niềm hãnh diện như ngày nay, nên có “kiểng chùa”, với vườn cây sum sê, vàng
rực hoa, đong đưa quả, ngan ngát hương thơm…?
“Kiểng chùa”, như ông
bà mình nói vậy, được hiểu là sự cảm thụ ngôi chùa, không phải bằng mắt, mà với
tất cả các giác quan.
Đến một ngôi chùa từ bề
ngoài rợp bóng cây xanh, người ta không chỉ thấy chùa, mà còn nghe chùa, qua tiếng
mõ tiếng chuông luồn qua âm thanh xào xạc của cây lá trong gió sớm; “ngửi” chùa
qua hương hoa hòa quyện với hương trầm, hay “cảm thấy” chùa qua không khí mát lạnh
trong veo từ cây cối…
“Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng
chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Xương…”
Nếu “Tiếng chuông Trấn
Võ” chỉ có một mình, độc nhất được nhắc đến, thì tiếng chuông Trấn Võ đâu có mà
hay như vậy.
Người ta cảm nhận cái
hay của tiếng chuông trong một cụm từ ngắn ngủi, vì trước đó, đã qua một câu
dài rất đẹp, rất thướt tha hình ảnh cây lá: “Gió đưa cành trúc la đà”…
Ngôi chùa cũng vậy. Nếu
chỉ có “ngôi” không, thì chưa đủ đẹp! Cần phải có bóng cây che rợp mái chùa, để
bóng chùa thì thấp thoáng sau “Gió đưa
cành trúc la đà”, chúng ta mới cảm
nhận đầy đủ vẻ đẹp của ngôi chùa…
Vì thế, “ông bà mình
nói vậy”, “kiểng chùa” (hay “cảnh chùa”) thay vì… ngôi chùa!
Bây giờ, đã cho nhiều
ngôi chùa chỉ còn mặt tiền chính điện tráng lệ, mà thiếu hẳn vườn cây, và nhiều
người trong chúng ta đã quên từ “cảnh chùa”, “kiểng chùa” mà chỉ nhớ đến từ
“ngôi chùa”.
Trong bối cảnh như vậy,
lời khuyên của một vị Thượng tọa lãnh đạo giáo hội về việc nhà chùa trồng cây,
gìn giữ cây xanh không nên chỉ được hiểu như một lời cổ động theo phong trào
thông thường, mà cần được hiểu như là một sự kêu gọi trở về với nét đẹp văn hóa
truyền thống của dân tộc.
“Kiểng chùa”, vì ông bà
mình nói vậy…
MT