Nhìn dáng mặt khắc khổ và ánh mắt khẩn cầu xin lại
bằng lái xe của chàng thanh niên bị kẻ gian móc túi trên xe buýt[i],
mà báo chí đã liên tục thông tin trong những ngày gần đây, trong tôi chợt dâng
lên một cảm xúc uất nghẹn và thương cảm đến nao lòng. Lần ngược lại những thông
tin cũ từ các báo trong nước, chuyện hiệp sĩ Minh Tiến ham bắt cướp nên mất trộm
xe; chuyện những đứa trẻ đánh nhau và người lớn chỉ đứng nhìn, chuyện những
người hôi của từ những tai nạn giao thông thương tâm… đã cho thấy một sự dửng
dưng, không động lòng, mà ngôn ngữ ngày nay gọi là thái độ vô cảm xã hội, đã và
đang hiện diện trong dòng sống sinh động của xã hội hôm nay. Trong khuôn khổ
của một người học Phật, chúng tôi muốn sẻ chia thêm về thái độ cũng như cách hành
xử cần có của người Phật tử nói chung, trước những hiện tượng này.
Sống là sống
với
Cần phải thấy rằng, sống là sống với, không ở đâu bạn
có thể sống một mình. Với cái nhìn liên hệ duyên sinh, sự hiện hữu của mỗi con
người, của mỗi sự vật, hiện tượng… có quan hệ và liên hệ thâm thiết đến nhau.
Chân lý liên hệ duyên sinh này đã được văn học Phật giáo hiện đại khái quát hóa
theo kiểu văn chương như: Một con muỗi đập
cánh ở rừng rậm Amazon thì ở Philippine có gió mùa. Bằng cái nhìn tương tức
và liên hệ đó, trong một không gian xã hội thu nhỏ, có thể thấy rõ sự khổ đau
hay bất hạnh của ai đó, có sự liên đới trách nhiệm đến thái độ sống cũng như
hành vi của mỗi người, trong đó có bản thân ta. Do vậy, đừng bàng quan giương
mắt làm ngơ trước cái xấu, cái ác đang diễn ra trong xã hội, vì tưởng rằng
chuyện đó không liên quan đến bản thân mình. Cần phải hiểu rằng, cũng do tư duy
của mình, do thái độ sống của mình, do cách hành xử ích kỷ của mình… mà cái
xấu, cái ác đó có cơ sở để nảy sinh.
Không chỉ trên phương diện liên hệ duyên sanh, trong
mối liên hệ, tác động giữa nghiệp chung (cộng
nghiệp) của nhiều người và nghiệp riêng (biệt
nghiệp) của từng người, đã góp phần tạo ra những nỗi bất hạnh hoặc cái xấu,
cái ác. Vì lẽ, do nhân như vậy, duyên như vậy nên ta đã gặp nhau trên cõi đời
này, trong cuộc sống này, tại không gian này, với bối cảnh xã hội như vậy. Không
thể đơn phương trách đời, trách người, trách nhà chức trách theo dạng thức Chí
Phèo thời nay. Ở đây, cần phải thấy rằng, tập tính sinh hoạt, không gian và bối
cảnh xã hội có sự liên hệ sâu xa đến phước báo cũng như dẫn nghiệp, hành động
của mỗi con người. Ngành khoa học nghiên cứu về tâm lý tội phạm cho thấy, có sự
ảnh hưởng và liên hệ sâu xa về dấu ấn tuổi thơ, không gian gia đình, bối cảnh
giáo dục, môi trường sống… có tác động rất lớn đến hành vi phạm tội của một cá
nhân. Thấy rõ mối liên hệ và bối cảnh sống cụ thể, để chúng ta nỗ lực nhằm hoàn
thiện mình, góp phần hoàn thiện xã hội và đặc biệt trước mắt, là luôn giữ tâm
rung cảm, trước những khổ đau cụ thể của mỗi con người.
Sự rung cảm
trước khổ đau
Lòng thương được xem là thuộc tính cơ bản của con
người. Ở đâu có con người, nơi ấy có tình thương. Làm người đúng nghĩa, yêu cầu
bắt buộc là phải có tình yêu thương đồng loại. Không có tình yêu thương đồng
loại và không rung cảm trước nỗi khổ đau của tha nhân, thì chưa phải là một con
người đúng chuẩn và đúng nghĩa.
Đạo Phật là tôn giáo tiêu biểu cho tình thương. Là một
người Phật tử, lẽ tất nhiên tình thương dành cho con người bao giờ cũng lớn hơn
người bình thường. Vì lẽ, tình thương của một người Phật tử đúng nghĩa không
chỉ dừng lại ở tình thương đồng loại, mà còn mở rộng thương cả vạn loại sinh
linh. Trước những bất hạnh, khổ đau của tha nhân, cũng như khi đối diện với cái
xấu, cái ác đã và đang len lỏi xuất hiện trong hiện thực sống này, người con
Phật cần phải giữ tâm rung cảm như là chuyện của chính bản thân mình. Mắt thương nhìn cuộc đời là hạnh nguyện
của mười phương chư Phật mà tiêu biểu là hạnh nguyện của Bồ tát Quán Thế Âm.
Hạnh nguyện đó, đã là người Phật tử thì phải nỗ lực noi theo và thực hiện.
Trước mắt, phải giữ tâm rung cảm, không xơ cứng, chai
lỳ trước nỗi khổ đau của đồng loại, tha nhân. Dẫu biết rằng, chỉ giữ được tâm
rung cảm như thế thôi cũng đã là một điều rất khó, trong dòng chảy phức tạp của
đời sống này. Bởi lẽ, một khi năng lực bảo hộ và quản lý của nhà chức trách vẫn
tồn tại những giới hạn, một khi tham dục lên ngôi và thói quen thụ hưởng tăng
dần, một khi cái xấu, cái ác luôn đoanh vây và xuất hiện hàng ngày, một khi sự
mưu mô, lừa lọc hiện diện khắp nẻo và niềm tin giữa con người và con người đang
tụt hạng ngay cả trong những mối liên hệ, quan hệ với người thân… thì thái độ
vô cảm sẽ lặng lẽ, âm thầm xuất hiện và tạo nên những hệ lụy kéo theo trong
cuộc sống này.
Ở đây, theo
quan điểm xuyên suốt của Phật giáo, không rung cảm trước nỗi khổ đau của đồng
loại, tha nhân thì chưa phải là người Phật tử đúng nghĩa. Vì lẽ, không rung cảm
trước đau khổ của con người, đó chính là tội ác. Do đó, với cái nhìn tích cực
và chủ động, người Phật tử phải xem việc giữ con tim rung cảm trước nỗi khổ đau
và bất hạnh của con người là một hạnh tu. Một khi hạnh tu này thuần thục, khi
nhân duyên chín muồi và hoàn cảnh sống đủ điều kiện, người Phật tử dễ dàng biến
lý tưởng sống cao đẹp của hạnh tu trở thành hành động hiện thực, góp phần giải
quyết từng nổi khổ đau cụ thể trong đời.
Phụng sự và
dấn thân, hạnh tu ở mọi thời đại
Với Phật giáo, phụng sự tha nhân được xem là hạnh tu
của mọi thời đại. Ngay bản thân Đức Phật là cả một bài học sáng ngời về hạnh
phụng sự, dấn thân. Đọc lại trang sử Phật hào hùng qua các thời đại, có thể
thấy rõ hạnh nguyện cứu người, giúp đời của các thế hệ tiền nhân trong Phật
giáo luôn được hậu thế ngưỡng vọng và tôn xưng.
Trong tư duy Tục đế, lẽ tất nhiên, chúng ta còn rất lâu
mới thành Phật và con đường cao tột đó, ta chưa thể bước vào chặng cuối của
hành trình. Mặc dù vậy, đã là con Phật, ít nhiều chúng ta cũng hội tụ những tố
chất như Phật, và một trong những tố chất đó, chính là tinh thần tự nguyện
phụng sự và nỗ lực, dấn thân. Ở đây, điều cần phải minh định trước tiên là sự
phụng sự và dấn thân trên cơ sở hoàn cảnh sống và nghiệp lực của riêng mỗi con
người.
Tùy theo điều kiện của mình mà ta có thể lựa chọn một
sự phụng sự, dấn thân thích hợp. Thái độ đó cần phải hành xử như việc cứu người
đuối nước. Phải ý thức rằng năng lực của mình ra sao và sức nặng của kẻ kia thế
nào để cả hai không bị chìm xuống nước. Nói rõ hơn, phụng sự tha nhân phải có
sự quán sát của trí tuệ. Bởi lẽ, với hoàn cảnh sống của một người Phật tử bình
thường, có những rủi ro và hạn chế nhất định, trong sự dấn thân và phụng sự tha
nhân.
Tư duy rõ ràng về điều này để có thể lựa chọn cho mình
một phương cách sống dấn thân và phụng sự phù hợp. Đừng e ngại việc nhỏ hay
việc to. Nhặt một cây đinh có khả năng phá hỏng ruột xe trên quốc lộ, gọi một
cú điện thoại khi thấy ai đó cần cấp cứu trên đường, ra tay chở che và hỗ trợ
trong những tình huống phù hợp ở đời thường… là những việc cần làm, thể hiện
cho hạnh tu thiết thực của một người cư sĩ trong thời đại hôm nay. Hơn đâu hết,
đã là một cư sĩ trong đời, phải sống làm sao để sự hiện hữu của mình ngoài ý
nghĩa với người thân, vợ con, còn phải có ý nghĩa với những hoàn cảnh thương
tâm khác.
Với một đất nước có trên 45 triệu người theo đạo Phật
như đất nước Việt nam[ii],
nếu như mỗi người cư sĩ Phật tử đều ý thức và rung cảm trước khổ đau của đồng
loại, tha nhân và nỗ lực dấn thân, phụng sự, thì đó là một tín hiệu đáng mừng cho
đạo đức xã hội hôm nay. Trong khuôn khổ những nỗ lực trước mắt, người cư sĩ phải
sống làm sao đừng bao giờ để xảy ra tình trạng, ngày đến chùa tụng kinh đều
đặn, nhưng khi gặp chuyện bất hạnh của người thì ngoảnh mặt, quay lưng. Kinh
Phật, ta có thể bắt gặp ở thực tế đời thường và bản kinh đó có ý nghĩa không
những cho bạn, cho tôi và cho tất cả những ai đang cầu mong vơi khổ.