Những năm gần đây, nhiều đôi bạn trẻ thương yêu nhau có tâm
nguyện mong muốn lễ thành hôn của mình – thường gọi là lễ hằng thuận –
được tổ chức trang nghiêm tại chốn thiền môn, trước Phật đài thiêng
liêng, dưới sự chứng minh hộ niệm của chư Tăng cũng như sự hoan hỷ chúc
phúc của quý Phật tử và thân bằng quyến thuộc. Đây là lối suy nghĩ
chín chắn, thể hiện thái độ hiểu biết sáng suốt của người con Phật
trước một quyết định quan trọng liên quan đến đời sống hạnh phúc gia
đình.
Kết hôn là việc hệ trọng trong cuộc đời của những người quyết tâm xây
dựng mái ấm gia đình. Nó đánh dấu bước ngoặc lớn trong đời sống của
người cư sĩ Phật tử. Vì vậy mà người ta cần căn nhắc sửa soạn cho thật
tốt việc kết hôn để bảo đảm đời sống hôn nhân được han phúc vẹn toàn và
tiến triển vững bền. Người Phật tử tìm đến Phật môn để thực hiện lễ
thành hôn tức là biết cách sửa soạn tốt cho đời sống hôn nhân của mình.
Có những chỉ dẫn hết sức căn bản trong giáo lý đạo Phật mang lại nhiều
lợi lạc có khả năng chắp cách cho tình yêu và khiến hôn nhân thêm hạnh
phúc vững bền.
Chẳng hạn, trong bài kinh dạy cho thanh niên Singalaka, Đức Phật đã
phân định rất rõ về”năm phận sự hiểu biết và thương yêu”mà người chồng
cũng như người vợ cần thực hiện đối với nhau trong đời sống tương quan
vợ chồng. Ngài khuyên người làm chồng cần phải: 1. có lòng tôn trọng vợ
mình, 2. không bất kính đới với vợ, 3. trung thành với vợ, 4.giao quyền
hành cho vợ và 5. thỉnh thoảng sắm tặng nàng đồ nữ trang. Đáp lại,
người vợ, phải: 1. có lòng thương chồng mình bằng cách thi hành tốt đẹp
bổn phận của người làm vợ, 2. khéo tiếp đón bà con, 3. trung thành với
chồng, 4. khéo gìn giữ tài sản của chồng, 5. khéo léo và nhanh nhẹn
trong mọi việc1.
Hôn nhân chính là sự mở đầu tiến trình thể hiện tâm tưởng”đồng
thuận”trong đời sống lứa đôi, nghĩa là sự gặp gỡ đồng cảm giữa hai tâm
hồn yêu mến nhau, quyết tâm cùng nhau xây dựng mái ấm hạnh phúc gia
đình. Tâm tưởng đồng thuận càng được thể hiện thì hạnh phúc hôn nhân
càng thêm sâu bền. Dân gian có câu nói”đồng vợ đồng chồng (hay thuận vợ
thuận chồng) tát biển Đông cũng cạn”, ngụ ý sự hòa hợp giữa hai tâm hồn
yêu nhau tạo nên sức mạnh, có khả năng vượt qua mọi gian nan thử thách
trong đời sống hôn nhân gia đình. Từ việc nhỏ cho tới việc lớn mà cả
hai, vợ và chồng, đều đồng tâm hiệp lực thực hiện thì kết quả sẽ vẹn
toàn. Giả dụ, sự nỗ lực nào đó chưa đạt kết quả như mong muốn,thậm chí
có thất bại đi chăng nữa, thì cả hai tâm hồn cũng biết cách vỗ về an ủi
cho nhau mà không hề ngã lòng. Nói khác đi, không hề có cảm giác thất
bại khi cả hai tâm hồn biết yêu thương, luôn luôn quan tâm chăm sóc đỡ
đần cho nhau.
Đức Phật đi xa hơn trong quan niệm về hôn nhân. Ngài xem hôn nhân
không chỉ là nhân duyên để con người kết nối hạnh phúc thương yêu mà còn
là cơ hội cho cá nhân (vợ cũng như chồng) hoàn thiện chính mình. “này
các gia chủ, khi cả hai, vợ và chồng, muốn thấy mặt nhau trong đời này
, và cũng như muốn thấy mặt đời sau nữa, và cả hai người là đòng tín,
đồng giới, đồng thí, đồng trí tuệ, thời trong đời hiện tại, các người
được thấy mặt nhau”2. Ngài nhấn mạnh bốn đức tính ”đồng
thuận”hướng thượng – đồng tín, đồng giới, đồng thí, đồng trí tuệ – như
là điều kiện giúp cho con người xây dựng hạnh phúc hôn nhân vững bền,
đồng thời quan niệm hôn nhân là khởi điểm của tiến trinh hoàn thiện bản
thân hướng đến giác ngộ, ở đó hai tâm hồn luôn gắn kết song hành với
nhau trong tình thương yêu và trong sự nỗ lực cùng thực hành Phật pháp,
không chỉ trong đời này mà còn nhiều đời tiếp theo, cho đến lúc cả hai
cùng đạt đến mục tiêu hoàn thiện hay giác ngộ. Trong
cách nói của Ngài, Đức Phật cho rằng sự chuyên tâm hành trì. Pháp của
hai người thương yêu nhau, nghĩa là cả hai cùng tin tưởng tôn kính Tam
Bảo, cùng giữ giới hạnh của người cư sĩ Phật tử, cùng mở tâm chia sẽ bố
thí, cùng nuôi dưỡng và phát triển trí tuệ giác ngộ, chính là mối lương
duyên kết nối hạnh phúc hôn nhân trong nhiều đời kiếp không tách rời.
Nó là điều kiện cho tình yêu hôn nhân thêm gắn kết bền lâu và hướng
thượng. Nói cách khác, người ta sẻ gặp lại người mình yêu trong các đời
sống tiếp theo với một trạng huống hạnh phúc yêu thương càng sâu sắc và
cao thượng hơn, nêu khéo tu dưỡng bản thân theo đúng lời Phật dạy.
Đồng tín nghĩa là cả vợ và chồng cùng nuôi dưỡng niềm tin và lòng tôn kính đối với Tam bảo: Phật-Pháp-Tăng.
Đồng giới tức là cùng phát nguyện sống theo các nguyên tắc đạo đức
căn bản do Đức Phật giảng dạy dành cho người tại gia cư sĩ, như ngũ
giới: không sát sanh, không lấy của người không cho, không tà hạnh,
không nói dối, không uống rượu; hoặc Bát quan trai giới hay Thập thiện
giới…
Đồng thí nghĩa là cùng nhau nuôi dưỡng và phát huy tâm thái từ bi
thương người thương vật, mong muốn được chia sẻ và sẵn sàng giúp đỡ
người khác tùy theo khả năng và nhu cầu.
Đồng trí tuệ tức là cùng nuôi dưỡng và thể hiện sự hiểu biết về lẽ
thiện ác, về luật nhân quả, về cách thức hướng thiện cho cuộc sống hay
phương pháp thoát ly phiền não khổ đau cho tự thân và cho người khác…
Tóm lại, lời Phật về việc phát huy bốn phẩm chất giác ngộ – đồng tín,
đồng giới, đồng thí, đồng trí tuệ – dành cho những người thương yêu
nhau đích thực là nền tảng căn bản cho hạnh phúc lứa đôi, khiến cho đời
sống hôn nhân càng thêm vững chắc và cao đẹp. Chúng ta có thể nói rằng
hôn nhân theo lời dạy của Đức Phật chính là sự kết nối tình yêu hướng
thượng, ở đấy tâm hồn con người càng trở nên trong sáng, nhu nhuyến và
hiền thiện, phẩm giá con người càng được nâng cao và tỏa sáng. Thương
yêu nhau và cùng nỗ lực dắt dìu nhau bước đi trên con đường thánh thiện
của Phật, cùng đồng tâm hiệp lực xây dựng mái ấm gia đình đúng như lời
Phật dạy thì hạnh phúc càng bền lâu và tình thương càng trở nên cao
thượng.
Sau cùng, các đôi bạn trẻ nam nữ có tấm lòng thương yêu nhau quyết
tâm tiến đến hôn nhân thì nên lắng nghe và suy ngẫm kỹ bài kinh Phật có
tên gọi “Xứng đôi” hay câu chuyện đàm đạo ý nhị giữa Đức Phật và đôi
phu thê tình nghĩa mặn nồng sau đây2 để hoàn toàn yên tâm và tin tưởng về lẽ sống hôn nhân hướng thượng theo tinh thần lời Phật dạy:
“Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Bhagga tại núi summumàra,
rừng Bhesakalà, ở vườn Nai. Rồi Thế Tôn, vào buổi sáng đắp y, cầm y
bát, đi dến trú sứ gia chủ cha Nakulà, sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ
đã soạn sẵn. Rồi gia chủ cha Nakulà và nữ gia chủ mẹ Nakulà đi đến Thế
Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế tôn rồi ngồi xuống một bên.
Gia chủ cha Nakulà bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, từ khi nữ gia chủ mẹ Nakulà được đem về đây cho
con khi con còn trẻ tuổi, con không bao giờ biết có điều gì xâm phạm đến
vợ con, cho đến ý nghĩ cũng không, chớ đừng nói gì đến thân. Vì rằng
bạch Thế Tôn, chúng con muốn thấy mặt nhau trong đời này, mà còn muốn
thấy mặt nhau trong đời sau nữa.
Nữ gia chủ mẹ Nakulà bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, từ khi con được đem về đây cho gia chủ cha
Nakulà, khi con còn trẻ tuổi, con không bao giờ biết có điều gì xâm phạm
đến gia chủ cha Nakulà, cho đến ý nghĩ cũng không, chớ đừng nói gì đến
thân. Vì rằng bạch Thế Tôn, chúng con muốn thấy mặt nhau trong đời
này, mà còn muốn thấy mặt nhau trong đời sau nữa.
- Vậy này các Gia chủ, khi cả hai người, vợ và chồng, muốn thấy
mặt nhau trong đời này, và cũng muốn thấy mặt sau trong đời sau nữa, cả
hai người là đồng tín, đồng giới, đồng giới, đồng trí tuệ, thời trong
đời hiện tại, các người được thấy mặt nhau, và trong đời sau, các người
cũng được thấy mặt nhau.
Cả hai, tín, bố thí,
Sống chế ngự, chánh mạng,
Cả hai vợ chồng ấy,
Nói lời thân ái nhau
Đời sống nhiều hạnh phúc,
Chờ đợi hai người ấy.
Kẻ ác không thích ý,
Cả hai giới hạnh lành,
Ở đây sông theo Pháp,
Giữ cấm giới đồng đẳng,
Cả hai giới hạnh lành,
Sống hoan hỷ Thiên giới,
Hưng hoan được thỏa mãn,
Đúng với điều sở cầu”.
Chú thích:
1. Kinh giáo thọ Thi Ca La Việt, Trường Bộ.
2. Kinh Xứng đôi, Tăng Chi Bộ.
Nguồn: Tạp Chí Văn Hoá Phật Giáo 215