Ngày xưa khi mới đến và thấy chuyện lạ, người ta còn  đoán mò rằng có
 thể khu vực có độc chất gì đó, hoặc vì điều kiện địa lý nào đó  ảnh 
hưởng đến người sống. Thế nhưng thời gian gần đây, khi “trục vớt” được 
tấm  bia đá cổ gần 400 năm tuổi và nghi ngờ đây là “vùng đất thiêng”, 
người ta lại đổ  lỗi những tai ương là đến từ… ma quỷ.
Câu chuyện xảy ra ở khu dân cư làng 
Thông Khê,  xã Cộng Hòa, huyện Vụ Bản (tỉnh Nam Định) không chỉ xôn xao 
dư luận mà còn giáng  những “đòn tâm lý” tai ương đến 10 hộ gia đình 
này: Đi không được, ở lại cũng  không xong.
Bia đá “báo mộng”?
Chuyện nhà nào trong khu dân cư này 
cũng gặp  tai ương thì người dân địa phương đã biết từ lâu, nhưng chuyện
 bia đá biết “báo  mộng” thì bây giờ người ta mới biết. Chị Nguyễn Thị 
Hoài (42 tuổi, chủ cửa hiệu  mỹ viện ảnh đối diện ngay lối đi duy nhất 
vào khu quẩn thể Phủ Thông trước đây)  dẫn chúng tôi vào khu đất hoang 
và chỉ nơi đặt tấm bia tạm thời. Như một người  “hướng dẫn chuyên 
nghiệp”, chị nhớ rành rọt từng chi tiết về việc trục vớt được  bia, về 
lịch sử của tấm bia và những câu chuyện liên quan đến tấm bia vì theo  
người phụ nữ này, chị chính là “chìa khóa” của sự việc – là người được 
tấm bia  “báo mộng”.
Căn nguyên của việc chị trở thành người
 trông  bia “bất đắc dĩ” là sau nhiều năm gia đình liên tục gặp hoạn 
nạn, mẹ chị ốm liệt  giường tưởng không qua khỏi, khi “đi xem” thì “thầy
 bói” bảo phải lập miếu thờ  may ra mới qua khỏi. Kể từ ngày gia đình 
chị lập miếu, ngày ngày hương khói,  cùng với việc thường xuyên tới cửa 
Phật, chị cho rằng không chỉ bệnh tình của  người mẹ thuyên giảm mà còn 
dần khỏe lại, gia đình ngày càng “ăn nên làm ra”.
Rồi một đêm chị Hoài nằm mơ thấy có một
 “vị  thần” dẫn chị ra tận bờ ao phía Bắc, trước đây là ao của khu Phủ 
Thông chỉ vị  trí tấm bia mà nói: “Tấm bia này chứa đựng rất nhiều điều 
mà đến nay nhiều người  vẫn chưa biết”. “Sáng hôm sau tỉnh dậy tôi ra bờ
 ao, nhớ lại chuyện trong mơ nên  đưa tay xuống vị trí đó và giật bắn 
người khi tay chạm ngay đúng một vật giống  như bia đá”, chị Hoài thuật 
lại.

Tấm bia đá biết “báo mộng”
Nhân dịp người dân tát ao, chị xin ý 
kiến các  cụ trong làng cho trục vớt tấm bia và mọi việc diễn ra thuận 
lợi. Mời cả những  người giỏi chữ nho trong vùng về đọc nội dung ghi 
trên tấm bia, dù có những đoạn  do thời gian quá lâu nên chữ bị mờ, tróc
 nhưng mọi người vẫn không khỏi giật  mình kinh hãi khi biết nội dung 
của tấm bia đó ghi lại công đức của bà chúa  Thông Khê. Về tên thật của 
bà mà trong lịch sử còn nhiều tranh cãi, có người cho  rằng bà mang họ 
Phùng nhưng theo bia đá thì chắc chắn bà mang họ Trần. Cũng theo  tấm 
bia này, khu đất mình đang ở có tên “quần thể Phủ Thông” trước đây nằm 
trong  hệ thống quần thể di tích Phủ Giầy (thờ mẫu Liễu Hạnh) mà khách 
thập phương ai  cũng biết tới.
Từ sự việc này, những người trong khu 
dân cư  mới lần về nguồn gốc khu đất mình đang ở và được biết nơi này 
trước đây là chùa  Quang Minh gồm nhiều đền phủ, nhiều dãy nhà ngang, 
nhà dọc to lớn.... Trong cuộc  kháng chiến chống thực dân Pháp, những 
dinh cơ miếu mạo này phần bị phá hủy bởi  chiến tranh, phần được chuyển 
sang làm trường học, trụ sở của các cơ quan...
Hiện dấu tích còn lại của khu phủ xưa 
chỉ còn  lại một gian nhà hoang tàn, cột kèo được chạm khác tinh tế và 
mái lợp ngói mũi  hài. Diện tích đất hiện nay còn khoảng 2000 mét vuông,
 do Công ty giống cây  trồng Nam Định quản lý và dù là “khu đất vàng” 
ngay cạnh trung tâm nhưng nhiều  năm nay đã bị “bỏ quên”, tiêu điều xơ 
xác như một khu đất hoang.
Những ngôi nhà cấp bốn trước đây là nhà
 kho đã  xuống cấp sập mái, chỉ còn trơ lại những bức tường gạch nham 
nhở. Khu ao hai bên  cũng đã bị “thu hẹp” và thuộc quản lý của các hộ 
gia đình nhận đấu thầu. “Tâm  điểm dư luận” chính là 10 gia đình đã được
 chính quyền xã tổ chức đấu thầu, chia  ô, cắt khoảnh một diện tích nhỏ 
trong khu vực này làm làm đất thổ cư.

Khung cảnh Phủ Thông hoang  tàn
“Trả giá” vì chiếm đất “người cõi âm”
Biết chuyện nhiều năm nay mình đang 
sống trên  “đất thiêng”, người ta mới giật mình nhận ra “thủ phạm” của 
việc vì sao nhiều  năm nay các gia đình trong khu vực này lại liên tục 
gặp phải tai ương, điên loạn  và những tai nạn bất thường như vậy. Tất 
cả các gia đình sau khi được nhận đất  đến làm nhà tại đây không gặp 
chuyện này thì cũng xảy ra chuyện nọ: Nhà thì có  người lâm trọng bệnh 
mà y học “bó tay”, nhà thì có người điên loạn.
Người ta cho rằng một trong những gia 
đình đã  bị làm “vật tế thần” đầu tiên là gia đình xây nhà trên đường 
vào khu Phủ Thông  trước đây. Đó là gia đình ông Trương Văn H (60 tuổi) 
có hai con trai là 37 và 35  tuổi đều phát điên, dù gia đình đã đưa đi 
chữa trị nhiều nơi nhưng bệnh tình vẫn  không hề thuyên giảm. Mới đây 
trong một lần lên cơn điên dại, gia đình ông  đã  phải nhờ đến sự can 
thiệp của chính quyền địa phương nhưng khi công an xã đến,  một người 
con trai đã vác dao chém cả công an. Không còn cách nào khác, chính  
quyền địa phương đã phải “hộ tống” thanh niên này vào trại điên chữa 
bệnh bắt  buộc vì sợ anh chàng có những hành động gây nguy hiểm cho gia 
đình và làng xóm.
Bên cạnh đó cũng là một bi kịch khác. 
Gia đình  ông hàng xóm Trần Văn B (50 tuổi) có một cậu con trai duy nhất
 là niềm hy vọng,  là “hạt giống đỏ” của cả gia đình. Từ bé cậu trai đã 
học rất giỏi, không phụ  lòng cha mẹ, xong cấp phổ thông thì thi đỗ 3 
trường đại học danh tiếng ở Hà Nội.  Cậu chọn học Trường Đại học Xây 
dựng, mong muốn khi tốt nghiệp sẽ trở thành kỹ  sư giỏi góp ích cho xã 
hội.
Lên Thủ đô, cậu chuyên tâm học tập, có 
thời  điểm được một tập đoàn kinh tế nhận tài trợ du học nước ngoài. Khi
 cậu sinh viên  đang phân vân suy nghĩ thì đột nhiên có những biểu hiện 
bất thường như tự bỏ học  đi lang thang ngoài đường vài ba ngày. Thấy 
lạ, bạn bè gọi điện về nhà cho bố mẹ  cậu. Hớt hải bắt xe lên, chứng 
kiến cảnh con trai đầu bù tóc rối, quần áo lem  luốc mà ông bà không tin
 đó là con mình, đành bấm bụng xin nhà trường bảo lưu  kết quả học tập 
để gia đình đưa con về nhà chữa chạy, hi vọng sẽ khỏi bệnh rồi  tiếp tục
 theo học.
Lúc đầu ông bà cũng chỉ nghĩ con trai 
học nhiều  quá mà bị “ngộ chữ” chứ chẳng chịu tin con mình bị điên. Tuy 
nhiên đến nay đã 3  năm trôi qua nhưng bệnh tình của cậu trai vẫn không 
hề thuyên giảm, ông bà phải  cắt cử người theo dõi con hàng ngày. “Ấy 
thế mà em nó giải toán, lý, hóa vẫn còn  rất chuẩn khi mấy cháu đi học 
về nhờ giải giúp. Còn sinh hoạt hàng ngày khác thì  em nó vẫn có những 
biểu hiện tâm thần”, ông B buồn rầu.
Cũng trên con đường dẫn vào khu Phủ 
Thông, gia  đình ông Nguyễn Văn N cũng mang bi kịch “tai ương trên trời 
rơi xuống” khác. Cả  hai ông bà có thời gian từng làm ngân hàng huyện, 
nay đã nghỉ hưu. Khi đấu thầu  được mảnh đất ở trung tâm mặt đường, 
những tưởng xây xong nhà là gia đình “ăn  nên làm ra”, lấy đó làm nơi 
phát triển kinh doanh.
Thế nhưng nhà mới xây chưa kịp ở thì 
ông bị tai  biến mạch máu não nằm liệt giường, kinh tế gia đình sa sút, 
bà vợ phải bỏ hết  mọi công việc để ngày ngày chăm lo cơm nước, thuốc 
thang cho chồng. Khi ông  chồng vẫn đang điều trị bệnh thì đúng một năm 
sau bà cũng bị tai biến. Không còn  gì khổ hơn khi hai góc nhà là hai 
chiếc giường cho đôi vợ chồng nằm bất động,  con cháu phải thay nhau 
chăm sóc.
10 gia đình nằm trên đất phủ xưa là 10 
bi kịch,  không có người gặp hoạn nạn ốm đau thì cũng có người điên 
loạn: Gia đình Phạm  Văn S có con trai nhiều năm nay bị điên loạn; gia 
đình bà Nguyễn Thị T, bà  Nguyễn T.T, ông Bùi Văn V, ông Lê Văn T, ông 
Nguyễn Văn T… đều có người mắc bệnh  nan y như bệnh ung thư gan, xuất 
huyết dạ dầy; có người mất khi tuổi còn khá trẻ,  có người vẫn còn đang 
mang bệnh trong người, không biết khi nào tử thần gọi đến  tên?
Những ngày phát hiện ra bia đá là những
 ngày  người dân trong khu vực “thất điên bát đảo” vì lo sợ, kinh hãi. 
Đem chuyện hỏi  những vị cao niên trong làng thì sau một hồi lục lại suy
 nghĩ, nhiều người cũng  nhớ ra những sự lạ như cụ Nguyễn Văn Côi (năm 
nay đã ngoài 90 tuổi): “Ngày tôi  còn nhỏ, thấy hội phủ to lắm, người 
khắp nơi về dự lễ hội có khi tới 10 ngày,  sau này chiến tranh tàn phá 
nhưng khu vực đất này vẫn còn “linh thiêng”. Khi cô  con gái tôi lên 9 –
 10 tuổi đi chăn trâu, nhiều hôm chạy về kinh hãi gọi bố ra  xem, đến 
nơi thấy một đôi rắn mào đang uốn lượn trên những ngọn nhãn, cây mít  
trong đất phủ”.
“Chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên”
Để tìm hiểu về sự việc có thật hay 
không chuyện  vì lấn “đất thiêng” mà người sống tại đây gặp nhiều tai 
ương, nhóm phóng viên  chúng tôi đã tìm gặp nhiều người có chức năng tại
 địa phương. Ông Bùi Văn Tam,  Nhà nghiên cứu lịch sử Nam Định, từng có 
nhiều năm nghiên cứu về vùng đất Thiên  Bản (nay là huyện Vụ Bản) cho 
biết: “Sau khi phát hiện bia đá, chúng tôi đã tập  trung nghiên cứu, tra
 cứu nội dung bia. Thật đáng tiếc là do lịch sử và thời  gian mà quần 
thể di tích Phủ Thông không còn.
Theo như tư liệu trước đây, khi lập 
đình, chùa,  miếu, phủ… người xưa thường chọn vị trí đắc địa nhất, nơi 
đất cao ráo, có thế  đất “rồng chầu, phượng múa”. Nếu nhìn tổng thể thì 
Phủ Thông nằm ở vị trí đầu  rồng theo hướng Nam, hai ao phía hai bên 
tượng trưng cho đôi mắt rồng và người  xưa cho rằng đây là một nơi đất 
thiêng”.
Cũng theo ông Tam, với những chứng cứ 
lịch sử,  có thể khẳng định chắc chắn Phủ Thông thuộc quần thể di tích 
Phủ Giầy thờ Thánh  mẫu Liễu Hạnh, nơi mà du khách thập phương vào dịp 
lễ tết và nhất là vào mùa  chính hội tháng ba vẫn thường trở về cầu cho 
quốc thái, dân an, gia đình bình  yên, xã hội phát triển. “Chúng tôi sẽ 
cố gắng dịch xong sớm và công bố rộng rãi  nội dung tấm bia về Phủ Thông
 tới mọi người”, ông cho biết thêm.

Nhà sử học Bùi Văn Tam: “Khu  đất nằm ở thế đắc địa “rồng chầu, phượng múa””
Thực hư thì chưa rõ, nhưng sau ngày 
phát hiện  ra sự việc thì khu vực trở nên hoang vắng hẳn bởi chẳng có 
nhiều người muốn bước  chân vào vùng đất “gieo rắc tai ương” này. Người 
địa phương cho biết trước đây  nhiều gia đình gần đất phủ có ý định lấn 
chiếm thêm một chút ra phía sau, nhưng  từ khi tìm thấy bia đá cổ thì 
“có cho thêm tiền cũng chẳng dám động vào đất của  người âm nữa” như lời
 một phụ nữ nói. Có một ưu điểm nữa là sau sự việc khu vực  bỗng… sạch 
sẽ hẳn lên, ví dụ như việc ao nước trong phủ trước đây là nơi người  ta 
cứ tiện tay là vứt rác, nay thì mọi người chẳng bị ai cấm mà không dám 
bén  mảng đến, sợ “làm ô uế đất thiêng”.
Ông Trần Văn Quân, Trưởng ban văn hóa 
xã Cộng  Hòa cũng xác nhận sự việc địa phương phát hiện, tìm được bia đá
 cổ và đã nhờ cán  bộ Phòng Văn hóa huyện cùng nhà nghiên cứu lịch sử 
Bùi Văn Tam tổ chức nghiên  cứu, dịch lại nội dung của tấm bia bởi đây 
là một chứng tích quan trọng về khu  quần thể di tích Phủ Thông đã bị 
chiến tranh phá hủy. Theo ông Quân, việc những  gia đình ở gần khu vực 
Phủ Thông gặp những bất hạnh trong cuộc sống là có thực,  tuy nhiên “đây
 chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên và do người dân thêu dệt thêm để  nói về
 sự linh thiêng của khu quần thể di tích Phủ Thông”.
| Bí mật trên tấm bia cổ:
 Theo nhà sử học Bùi Văn Tam, tấm bia đá
 về bà chúa  		Thông Khê cho biết bà có tên thật là Trần Thị Ngọc Đài, 
sinh ra vào cuối  		thế kỷ XVI (tương truyền vào năm chúa Liễu Hạnh mất 
khoảng năm 1577).  		Được chúa Trịnh Tráng (Văn tổ Nghị Vương) đưa về 
dinh lập thành Dương  		Phi rồi sinh ra chúa Trịnh Tạc. Vì thế khi con 
trai làm chúa, bà được  		phong là Thái phi và mất năm Kỷ Dậu 1669, thọ 
93 tuổi. Bà không chỉ là  		người có tài sắc vẹn toàn mà còn có nhiều 
công lao trong việc mở mang  		kinh tế, văn hóa cho quê hương Vụ Bản, 
được dân gian tôn vinh thành “một  		trong sáu sự kỳ lạ của đất Thiên 
Bản”. Sau ngày bà mất người dân nơi đây  		đã đúc tượng đồng thờ bà cùng
 với Mẫu Liễu Hạnh. 
Để tưởng nhớ công ơn của bà người dân 
nơi đây  		đã lập bia nói lên công đức ấy. Bia đá có niên hiệu Dương Hòa
 – Thời kỳ  		nhà Lê năm thứ 6 (1640), chiều cao 1,55 mét, rộng 0,9 mét 
và dày 0,16  		mét; được chạm khắc rồng nổi, hoa điêu. Trên bia đá được 
lập thành 3  		phần: Phần thứ nhất nêu lên lịch sử và những lần tôn tạo 
của chùa Pháp  		Quang nằm trong quần thể chùa Thông; Phần hai về số 
ruộng mà bà chúa  		Ngọc Đài công đức vào chùa; Phần thứ ba là thơ ca, 
ca ngợi công đức của  		bà, cảnh đẹp, phồn thịnh của quê hương đất Thiên
 Bản. Trong bia đá còn  		ghi rất rõ diện tích của Phủ Thông là hai mẫu 
(tương đương với 5 ngàn  		mét vuông, gồm cả hai ao bên cạnh chùa). Bia 
đá khẳng định năm 1629 (năm  		Kỷ Tỵ) chùa Pháp Quang đã được xây toàn 
bộ bằng gạch, lập ngói. 
 | 
Theo Nhóm phóng viên PLVN