Tìm về với lịch sử dân tộc
không phải là nhắc lại, điểm qua và hệ thống các sự kiện theo kiểu biên
niên mà phải tìm cho ra cái tiềm ẩn bên dưới những sự kiện, không chỉ
những thành công mà cả thất bại. Thành công hay thất bại đều là những
kết quả của mồ hôi, nước mắt và xương máu của bao thế hệ, nói cách
khác, đó những bài học về việc huy động sức mạnh của dân tộc và trí tuệ
của toàn dân.
Lịch sử thăng trầm qua các thời đại của dân tộc
cho thấy, lúc nào nhà cầm quyền hiểu được lòng dân, nói cho dân hiểu để
nhận thức rằng vận mệnh của dân tộc chính là vận mệnh của mình, của gia
đình mình, dòng họ mình; dân tin nhà cầm quyền, tin ở khả năng và cách
ứng xử, tin ở chính sách cởi mở và khoan dung; tin rằng mọi người Việt
là anh em mình … thì lúc đó sẽ huy động được mọi nguồn lực và trí tuệ
trong nhân dân. Còn ngược lại, khi người dân không có niềm tin, mất
niềm tin ở người đại diện chính quyền, ý kiến và quyền lợi của người
dân không được đếm xỉa tới, thì lúc đó xã hội luôn tiềm ẩn nguy cơ biến
động, mất ổn định. Niềm tin là yếu tố căn bản trong các giá trị. Phật giáo gọi nó là nguồn gốc của mọi phẩm tính.
Trong
thế kỷ XX, lịch sử ghi nhớ đến hai cuộc huy động sức mạnh và trí tuệ
của dân tộc, của toàn dân vĩ đại, đó là sự vận động trong các cuộc
kháng chiến hào hùng chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Trong
hai cuộc vận động lớn ấy, không một lực lượng yêu nước nào đứng ngoài,
tất cả cùng một niềm tin, tin ở ngọn cờ chính nghĩa và cũng là một khao
khát mãnh liệt của mỗi người Việt Nam: giải phóng dân tộc và thống nhất
đất nước. Niềm tin đó đã đưa đến đại đoàn kết và những thành công vĩ
đại.
Điều đó cần được nhắc lại, không phải chỉ để tự hào và
kiêu hãnh, bởi vinh quang dẫu huy hoàng như thế nào cũng chỉ hiện hữu
trong giây lát, con đường đến đỉnh cao ấy thì lắm chông gai, ghập
ghềnh, gian nan. Nhắc lại điều đó để nói đến nguyên lý xưa như trái
đất, bài học vỡ lòng của lịch sử: lòng dân, niềm tin của nhân dân.
Đất
nước đang đi vào một thời đại mới đầy những thách thức và cạm bẫy, xã
hội lại đang ngổn ngang với nhiều vấn đề về văn hóa, suy thoái đạo đức,
giá trị tâm linh một thời bị xem nhẹ nay có những biểu hiện biến tướng
tiêu cực. Điều này là do đâu? Cũng từ niềm tin mà ra.
Niềm tin không phải tự nhiên có mà xuất phát từ nhận thức. Khi có
được niềm tin, thì chính nó sẽ dẫn dắt hành động. Hành động làm hại bản
thân, gia đình và xã hội của một người, là dân thường hay quan chức,
chứng tỏ nhận thức của người đó có vấn đề. Anh ta đã không tin sâu sắc
vào bản thân mình. Anh ta không tin vào quy luật gieo nhân nào gặt quả
đó vốn có lâu đời trong gia tài văn hóa truyền thống. Anh ta không tin
rằng hạnh phúc, sự thanh thản mà mỗi người mưu cầu xuất phát từ thái độ
sống, từ nội tâm chứ không phải từ sự sung túc của vật chất. Anh ta
không tin đời sống là luân hồi tái sinh mà chỉ có một đời này thôi nên
mặc sức sống hưởng thụ một cách thực dụng và ích kỷ…
Thiết
tưởng cần nhắc đến một thiên tài chính trị 700 năm trước: vua Trần Nhân
Tông. Sau những chiến công lẫy lừng đánh đuổi quân xâm lược Nguyên,
Mông, vua đã nhường ngôi cho người kế thừa khi tuổi chưa vừa 50 tuổi,
trở thành người cố vấn, giữa nhiều vấn đề của đất nước sau thời chiến
cần giải quyết, thì ổn định niềm tin để xây dựng nền tảng văn hóa bền
vững là điều cần thực hiện ngay. Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông đã
đích thân đi vào các làng xã để khuyến dụ dân chúng phá bỏ các dâm từ,
thực hành theo năm giới, mười thiện (1).
Trần Nhân Tông đã thấy được sự cấp thiết cần phải xây dựng những chuẩn
giá trị căn bản trong đời sống văn hóa, đạo đức cho toàn dân để có được
sự ổn đinh lâu dài.
Trong kháng chiến, niềm tin của toàn dân
đặt vào một mục tiêu duy nhất: chiến thắng ngoại xâm, giành lại độc lập
dân tộc. Thời bình, muốn xã hội ổn định, niềm tin phải được định hướng
căn bản vào các giá trị đạo đức truyền thống, hướng thiện. Niềm tin ấy
cần được củng cố bằng sự minh định khái niệm bản sắc văn hóa dân tộc là
gì, hơn bao giờ hết, điều đó cần được nói rõ, cụ thể, tránh cách nói
chung chung dẫn đến nhận thức mơ hồ, mông lung. Nhận thức lệch lạc,
không đúng, không rõ ràng sẽ dễ dẫn đến hành động nguy hại. Mà nguy hại
trong văn hóa sẽ ảnh hưởng lâu dài, mất nhiều công sức và của cải để
khắc phục, điều chỉnh, trong đó điều nguy hại nhất là tác nhân gây nên
hội chứng thờ ơ thậm chí lãnh cảm ở người dân. Và đó là nguyên nhân sâu
xa gây nên sự mất ổn định trong đời sống xã hội, phá vỡ mối đoàn kết
dân tộc.
Giữa cuộc sống luôn thay đổi, luôn sinh sôi nảy nở,
thì niềm tin ở mỗi cá nhân trong giá trị chung, giá trị căn bản của nền
văn hóa dân tộc được đúc kết từ mấy ngàn năm qua sẽ làm nên mối dây
liên thông giữa các cá nhân với nhau, giữa các cộng đồng, giữa hiện tại
với truyền thống, góp phần điều hòa giữa mới và cũ, tạo nên sự ổn định
bền vững cho xã hội.
(1) Năm giới: Không giết hại vì tôn
trọng mạng sống của mình và người khác; không trộm cắp vì tôn trọng của
cải của người khác; không tà dâm vì tôn trọng tiết hạnh và hạnh phúc
của chính mình và người khác; không nói dối vì tôn trọng sự thật; không
sử dụng rượu (cùng các chất gây nghiện ngập) vì giữ gìn sự sáng suốt
của đầu óc.
- Mười thiện: Không giết hại, không trộm cắp,
không tà dâm, không nói lời không đúng sự thật, không nói lời xấu ác,
không nói lời đâm thọc hai chiều, không nói lời gây chia rẻ căm thù,
không tham lam, không sân hận và không si mê.
Hoàng Độ
Nguồn:
Văn hóa Phật giáo