Tri thức là những hiểu biết có hệ thống về sự
vật, hiện tượng tự nhiên hay xã hội. Không có tri thức
thì xã hội không phát triển được.
Đấy là điều có vẻ hiển nhiên.
Tuy vậy, vấn đề không đơn giản như nó thoạt nhìn. Sự hiểu biết của
loài người là động, chứ không phải tĩnh. Cũng có những hiểu biết có hệ
thống hẳn hoi, nhưng hóa ra lại là những hiểu biết nhầm lẫn và nếu khăng khăng
bám lấy và hành động theo những hiểu biết đó có thể dẫn đến tai họa. Sự tích tụ
tri thức, như thế là một quá trình động và nếu không tỉnh táo thì không có gì
đảm bảo rằng xã hội chắc chắn tiến lên theo chiều hướng
"tiến bộ" (hiểu theo nghĩa phát triển theo hướng đi lên, tốt hơn trước) với sự
tích tụ tri thức.
Các hiện tượng tự nhiên có vẻ hoàn toàn độc lập với tư duy của con người. Dẫu chúng ta có nghĩ gì về thời tiết, về mặt trăng, thì suy nghĩ đó
cũng không ảnh hưởng đến diễn biến thời tiết hay sự chuyển động của mặt trăng và
thủy triều, chẳng hạn. Thế nhưng, ngay cả sự hiểu biết của chúng ta về tự nhiên cũng được
tích tụ dần dần và không thiếu những hiểu biết có hệ thống (tức là các lý thuyết
về tự nhiên) cũng đã tỏ ra là sai lầm. Không bao giờ chúng ta có hiểu biết đầy đủ về tự nhiên.
Tự nhiên luôn để ngỏ cho sự khám phá.
Đối với xã hội, tình hình có một điểm khác biệt căn bản. Con người có tư
duy đóng vai trò cốt yếu trong xã hội. Nói cách khác, các hiện tượng xã hội không độc lập với tư duy của
chúng ta và vì thế sự phát triển của xã hội không chỉ phụ thuộc vào hành động mà
phụ thuộc rất nhiều vào chính tư duy của chúng ta.
Nhận xét trên về tự nhiên càng đúng với xã hội: Không bao giờ chúng ta có hiểu
biết đầy đủ về xã hội, không chỉ phải do hạn chế của trí tuệ chúng ta, mà chủ
yếu bởi sự hiểu biết ấy trở thành phần cố hữu của xã hội. Xã hội luôn để ngỏ cho
sự khám phá và bản thân sự khám phá, sự hiểu biết về xã hội lại làm cho xã hội
thay đổi, thậm chí phức tạp thêm! Cho nên những người cho rằng
mình đã nắm được quy luật phát triển của xã hội, là những người ngộ nhận, nếu
không nói là kém hiểu biết.
Đã có những hiểu biết có hệ thống, được hỗ trợ bởi những mô hình toán học
rất tinh vi, được dạy ở nhiều đại học danh tiếng và các tác giả của chúng đã
nhận được nhiều giải thưởng cao quý như giải Nobel chẳng hạn, các lý thuyết cho
rằng thị trường luôn luôn đúng và không cần sự can thiệp của nhà nước. Cuộc
khủng hoảng tài chính 2007-2008 kéo theo
khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay đã cho thấy những hiểu biết có hệ thống ấy
không hẳn đúng và việc mù quáng bám theo chúng có thể và đã dẫn đến tai họa.
Làm sao để cho những hiểu biết có hệ thống của chúng ta phản
ánh ngày càng đúng hơn thế giới thực, giúp cho sự phát triển đích thực của xã
hội? Hay có thể đặt câu hỏi ngược lại: Cái gì cản trở việc đó? Cách đặt
vấn đề trước hướng dẫn chúng ta phải làm gì, cách đặt vấn đề sau hướng dẫn chúng
ta phải dỡ bỏ hay khắc phục những cản trở nào. Không có tự do nghiên cứu, không
có tự do ngôn luận, không có tranh luận, độc quyền chân lý... chắc chắn là những
cản trở đối với sự tìm kiếm tri thức mới, đối với sự tích tụ tri thức, đối với
việc loại bỏ những hiểu biết nhầm (dẫu có hệ thống), tức là cản trở sự phát
triển xã hội.
Chỉ có tri thức cũng chưa chắc đã có sự phát
triển. Cần cả lòng trắc ẩn, lòng từ
bi nữa. Có thể kể ra rất nhiều thí dụ về việc sử dụng tri thức để làm hại
con người, để kéo lui hay phá hủy sự phát triển: Từ chiến tranh, hủy hoại môi
trường, bóc lột con người, lừa đảo, tham nhũng, đến làm giàu bất chính...
Lòng trắc ẩn, lòng từ bi thường được hiểu là
tình cảm thương xót, đồng cảm, thấu hiểu và chia sẻ những nỗi thống khổ và vô
thường của những người khác (rộng ra là của con người và vạn vật). Nó là một đức hạnh căn bản và được tất cả các tôn giáo răn dạy. Thiếu tình thương, lòng trắc ẩn, lòng từ bi, thiếu khía cạnh này của
đời sống tâm linh thì sự phát triển xã hội là một sự phát triển không xứng đáng.
Nếu hiểu như nhà kinh tế học Ấn Độ, đoạt giải Nobel, Amartya Sen hiểu, sự
phát triển với tư cách là tự do, thì để có sự phát triển xã hội, cần đến tri
thức, đến khoa học để tạo ra và hệ thống hóa tri thức và đến lòng trắc ẩn.
Khoa học và tôn giáo, nhất là Phật giáo, không nhất thiết đối lập nhau như có
người đã rao giảng. Khoa học, tri thức giúp chúng ta tạo dựng cuộc sống
vật chất ngày càng sung túc hơn. Khía cạnh tâm linh của cuộc
sống cũng quan trọng không kém.
Theo: Lao Động số Xuân 2012