Trong
một buổi lễ giỗ tổ tiên tại Làng Mai Pháp, tôi có dịp ngồi ăn chung với
một vài em bé Việt Nam sống tại Âu châu. Các em về tham dự khoá tu mùa
hè hàng năm với cha mẹ. Một cậu bé khoảng 10 tuổi ngỏ ý muốn chia một
nửa ly chè đậu xanh cho tôi. Tôi mỉm cười cám ơn nhưng không nhận vì
muốn để em ăn nguyên cả ly. Ấy vậy mà em buồn và không ăn ly chè đó.
Nhưng mà em không buồn lâu, mấy phút sau tôi lại cùng em trò chuyện. Trẻ
em thật trong sáng, trong lòng có gì thì ở ngoài biểu hiện ra cái đó.
Có giận, có buồn thì nói ra liền, xong rồi không nhắc tới nữa, lại tiếp
tục chơi với nhau. Nếp sống hồn nhiên của các em, nhiều khi người lớn
thấy mà thèm.
Một điều làm cho ta quan tâm là trong xã hội sống
nhanh hiện đại, trẻ em không có nhiều cơ hội để được sống hồn nhiên. Các
em phải “bị học” nhiều quá vì xã hội đẩy các em phải biết nhiều hơn,
phải tiếp thu các kiến thức mới để có thể thành công sau này. Vì vậy,
các em cũng có mối lo âu và cũng mang bệnh tâm lý của người lớn như căng
thẳng, trầm cảm và mặc cảm tự ti.
Theo các nhà giáo dục, lứa
tuổi 6 đến 12 là lứa tuổi quan trọng trong quá trình trưởng thành. Những
cảm hứng, lòng mong muốn trở thành, muốn làm một cái gì đó được định
hình trong giai đoạn này. Việc hướng dẫn khả năng sống hạnh phúc và bình
an khi còn nhỏ để có thể có nguồn cảm hứng đó quan trọng hơn việc hướng
dẫn kỹ năng để các em trở thành bác sĩ, kỹ sư, nhà khoa học, doanh
nhân, nhà văn, v.v... sau này. Đời sống là một cuộc hành trình, không
là một cái đích để đến (Life is a journey, not a destination). Ta không
muốn các em phải kiệt sức khi chỉ mới ở mức khởi đầu của cuộc sống. Một
điều cần để ý là khi bình an và thảnh thơi, các em có thể tiếp thu gấp
nhiều lần khi các em lo âu và hấp tấp. Ví dụ như khi bị bạn giành đồ
chơi, nếu các em biết cách trở về với hơi thở, biết nói lời nhỏ nhẹ,
biết chia sẻ đồ chơi với bạn thì các em sẽ không giận lâu. Và sau đó,
các em sẽ dễ tập trung vào việc học hơn.
Những cuộc khảo cứu về
đời sống của các thần đồng ở Anh quốc cho biết là các em thiếu khả năng
ứng xử trong đời sống hằng ngày và các em mong muốn được sống bình
thường như những trẻ em khác1. Sau khi thành tài, sự đóng góp của các
nguyên thần đồng cũng không có gì đặc biệt. Một số không chịu được môi
trường huấn luyện khắt khe đã bỏ cuộc hay sau này lớn lên đã thất bại
trong cuộc sống2. Nhận thấy những áp lực và thiệt thòi mà các thần đồng
phải trải qua trong môi trường học tập và huấn luyện, bà Ruth Lawrence –
một thần đồng tốt nghiệp thủ khoa cử nhân toán lúc 13 tuổi (1985) và
tiến sĩ năm 17 tuổi (1989) tại đại học Oxford, Anh và hiện là giáo sư
toán tại viện Toán học Eistein, Do Thái – nhất quyết sẽ để cho hai đứa
con của mình phát triển một cách tự nhiên.
Nhà
giáo dục Mỹ Robert Fulghum – trong cuốn sách Những gì tôi cần biết, tôi
đã học ở lớp mẫu giáo – nghĩ rằng những tuệ giác cho cuộc sống được
tìm thấy tại sân chơi trường mẫu giáo chứ không phải tại các lớp đào tạo
thạc sĩ hay tiến sĩ. Những tuệ giác đó là3: chia sẻ những gì mình có;
chơi công bằng; đừng đánh người; trả vật về chỗ mình đã lấy nó; dọn đống
rác của mình; đừng lấy những gì không phải của mình; xin lỗi khi làm
người nào buồn; rửa tay trước khi ăn; nhớ dội cầu; ngủ trưa; uống sữa;
có cuộc sống cân bằng: học, suy nghĩ, ca hát, múa, chơi, và làm việc;
khi đi ra ngoài, nhớ xem chừng xe cộ, nắm tay nhau; con cá vàng, chú
chuột bạch nhỏ rồi sẽ chết và ta cũng vậy… Và nhớ điều quan trọng: nhìn
cho kỹ.
Sự đánh giá thành công qua bằng cấp và một việc làm tốt
đã làm cho hệ thống giáo dục của đa số các nước châu Á có tính cách cạnh
tranh và thương mại. Ở Hồng Kông và Hàn Quốc, hệ thống các trường dạy
thêm là một ngành kinh doanh lớn và mang lại nhiều lợi nhuận. Để được
điểm cao trong các kỳ tuyển chọn vào các trường trung học tốt, các học
sinh mẫu giáo lớp một phải học thêm chương trình lớp ba, học sinh lớp ba
phải học thêm chương trình lớp năm tại các trường dạy thêm4. Theo các
nhà phân tích, những trường dạy kèm này là vô bổ và chỉ làm rối loạn
thêm hệ thống giáo dục. Các em học sinh, các thầy cô giáo, và cả cha mẹ
cũng mệt. Nhưng ai cũng nói là phải chịu, vì hệ thống nó đã như vậy. Có
khi các bậc cha mẹ vì giành chỗ học cho con, xem các học sinh khác như
là đối thủ cạnh tranh của con mình. Hội các nhà giáo nữ tại Hồng Kông
cho biết khoảng 80% học sinh tại đây luôn luôn hay thỉnh thoảng bị trầm
cảm5. Tháng 1 năm 2008, một bé gái Hồng Kông chín tuổi đã tự tử vì nghĩ
em không là một học sinh giỏi khi một bài thi của em chỉ có 9 điểm trên
10. Em bé luôn luôn được điểm 10 trên 10.
Ở
Việt Nam, dù không có hệ thống kinh doanh trường tư dạy kèm, nhưng
chương trình học nặng nề cũng đã tạo ra hệ thống dạy kèm tương tự. Các
học sinh phải đi học thêm thì mới bắt kịp chương trình ở trường (Khổ vì
sự học, Tuổi trẻ 16.10.2008). Một điều đáng lo ngại là ngay cả các em
nhỏ học lớp một cũng phải đi học thêm (VietNamNet, 17.10.2008). Không
hiểu vì sao mà chương trình học bây giờ lại nặng nề như vậy. Đời sống
của cha mẹ, thầy cô giáo và của các em bị xáo trộn, tạo ra nhiều áp lực
và căng thẳng. Vì phải đi học thêm nhiều quá, các em nhỏ nghe tới việc
đi học là sợ. Có đi học thì cũng mệt đừ, không tiếp thu được. Thầy cô
giáo, học trò phải chạy sô. Không có thì giờ ăn, ngay cả bữa cơm gia
đình mỗi buổi tối cũng không có được. Một trong những nền tảng của hạnh
phúc gia đình bị phá vỡ, chỉ vì các em phải học nhiều quá.
Các
trường đại học hàng đầu của Mỹ như Harvard, MIT, Stanford… được nổi
tiếng nhờ về chất lượng các giáo sư, các công trình nghiên cứu và giảng
dạy, và quan trọng không kém là phẩm chất của các học sinh. Có thể nói
chính các sinh viên đã đẩy phẩm chất của trường đi lên – vì nhu cầu khám
phá, tìm hiểu cái mới, tính sáng tạo và độc lập trong tư duy của họ đã
làm cho các giáo sư phải luôn luôn nâng cao trình độ. Tại Việt Nam, việc
đưa các bài văn mẫu để các em học thuộc lòng hay lấy ý để viết theo đã
vô tình biến các em thành những người đạo văn (Bài văn được điểm 10 chép
từ văn mẫu, Tuổi trẻ 11.8.2006). Nếu việc đạo văn đã thành một thói
quen, thì khi đi học ở nước ngoài, những bài thi lấy nguyên văn và ý
tưởng của người khác sẽ bị đánh rớt – cho dù là học sinh đó ghi ra từ
trí nhớ. Phương pháp giáo dục từ chương, nhét nhồi kiến thức, học tủ để
đi thi không đào tạo được học sinh có tinh thần sáng tạo và độc lập
trong tư duy.
Một
số các bậc cha mẹ cho con học thêm âm nhạc hay thể thao như là một hình
thức thư giãn. Đây là một điều đáng khuyến khích, nhưng cần để ý đến
nhu cầu nghỉ ngơi của trẻ, đừng vì ý muốn của mình mà bắt con phải làm
theo. Đừng có buổi sáng thứ bảy thì cho con đi học bơi, chiều đi học
ballet, sáng chủ nhật đi học piano, chiều đi học võ. Xong cuối tuần là
con mệt đừ. Đừng biến con mình thành một món hàng để khoe. Anh văn là
một ngôn ngữ thực dụng, cần nên học. Nhưng không nhất thiết phải học
trong thời gian tiểu học. Cứ cho con học tiếng Việt cho giỏi trước. Đừng
lo là lớn rồi thì khó học ngoại ngữ. Các bậc cha mẹ có con học trường
quốc tế cũng nên cho các em học về bản sắc Việt Nam của mình. Trong môi
trường đa văn hoá của thế giới hội nhập, biết được bản sắc dân tộc của
mình là một điều cần thiết và sẽ giúp các em tự tin hơn sau này.
Chuyện
kể có hai vợ chồng trẻ và đứa con nhỏ đi dã ngoại trên một ngọn đồi.
Bỗng nhiên em bé vuột khỏi tay mẹ và chạy. Phía trước là một cái hố sâu.
Người mẹ hốt hoảng, la lớn và chạy theo. Càng la và càng đuổi theo, em
bé càng chạy nhanh. Thấy như vậy, người cha ngồi xuống, và nói vợ đừng
đuổi theo nữa, cứ ngồi xuống. Em bé không nghe tiếng la và tiếng chân
người đuổi theo, nên cũng dừng lại. Ta có thể xem cuộc đi chơi của gia
đình này như là việc cha mẹ dắt con đi học. Chương trình học nặng quá,
đầy áp lực làm em bé phải chạy – vừa để theo kịp chương trình vừa để
trốn vì sợ. Để giúp con, người mẹ cũng phải chạy theo và la lên vì đời
sống của gia đình bị xáo trộn và cảm thấy bất lực khi không làm được gì
để thay đổi tình trạng. Người cha – tượng trưng cho những người khác có
trách nhiệm và quan tâm đến vấn đề – thấy vợ con sắp rơi xuống hố, mới
dừng lại và làm cho mọi người cùng dừng lại. Dừng lại để nhìn rõ vấn đề
hơn và kiếm cách giải quyết. Hố sâu đây là nguy cơ đổ vỡ một nền tảng
hạnh phúc gia đình và là sự tạo thành những người trẻ đầy căng thẳng và
lo âu. Học viện Giáo dục Hồng Kông – nơi cung cấp 80% giáo viên tiểu
học cho Hồng Kông – đã bắt đầu đối phó với tình trạng này bằng cách dạy
những phương pháp thực tập chánh niệm cho các giáo viên và học sinh
tiểu học5.
Ai cũng thấy rõ là chương trình học quá nặng, các em
và gia đình không có thì giờ thư giãn, không có được bữa cơm gia đình,
không có khả năng tiếp xúc với vẻ đẹp của sự sống. Đi chậm lại, dừng
chân nghỉ ngơi, xem hoa, múa hát. Ta học và đóng góp suốt cuộc đời,
không chỉ trong mười mấy năm tiểu học và trung học. Các em nhỏ sẽ có
nhiều cảm hứng trở thành bác sĩ, kỹ sư, nhà xã hội học, nhà văn, doanh
nhân… khi hạnh phúc chơi bắn bi, nhảy dây, trốn tìm, đi dã ngoại hơn là
khi mệt mỏi ngồi trong các lớp học để nhồi nhét kiến thức.
Chân Pháp Khâm
ảnh Hải Thanh
Nguồn: Sài gòn Tiếp thị Online
Vẻ Đẹp Phật Pháp theo: Tạp Chí Đạo Phật Ngày Nay, Tập 4.
1. “Young, gifted and trying to be a normal child”, Amy Iggulden, Telegraph.co.uk, 10.2.2007
2. “Sufia Yusof – Child prodigy revealed as prostitute”, Neil Tweedie, Telegraph.co.uk, 1.4.2008
3. “All I really need to know, I learned in kindergarten”, Robert Fulghum
4. “Give these kids a break”, KoreaHKFriendship.org, 9.1.2007.
5. “Teaching spirituality”, Joy Lu, China Daily (HK Edition), 8.5.2008
Read more...
Nguon: http://vanhoaphatgiaophapbao.blogspot.com/