Thế rồi dần dần, con người bắt đầu nảy sinh ý niệm chấp thủ tư hữu và
điều này khiến họ dần đánh mất đi sự hồn nhiên vô tư thuần khiết ban
đầu. Đến thời hiện đại thì sự thuần khiết đó hình như đã vắng bóng. Xã
hội hiện đại đã giúp con người văn minh hơn, tiện nghi đầy đủ hơn,
nhưng bên cạnh đó cũng tạo ra khá nhiều vấn nạn, trong đó phải nói đến
lối sống của một bộ phận lớp trẻ trong xã hội hiện nay.
Con
người vốn là một loài động vật có sự hiểu biết cao cấp, nhưng sự hiểu
biết đó nếu không có sự gạn lọc thì sẽ trở thành mối hiểm họa khôn
lường. Thông thường khi nói đến mối quan hệ giữa người với người,
chúng ta liên tưởng ngay đến thái độ cư xử, và chính thái độ cư xử của
mỗi người đã nói lên đức tính đạo đức của cá nhân người đó, còn mức độ
cao thấp thế nào là tùy thuộc vào các mối quan hệ trong cộng đồng xã
hội của mỗi cá nhân. Do vậy, thông qua cuộc sống hành xử hiện tại,
chúng ta có thể thấy được giá trị đạo đức của mỗi cá nhân nói chung và
của tuổi trẻ trong xã hội hiện nay nói riêng. Hơn nữa, tuổi trẻ là nền
tảng căn bản để xây dựng một xã hội lành mạnh, giàu đẹp, an vui và
hướng đến những phát triển tươi đẹp trong nhiều lĩnh vực đối với thế
giới. Muốn xây dựng một thế giới an vui, một đất nước lành mạnh thì vấn
đề cần chú ý là bồi dưỡng hiền tài, bồi dưỡng đạo đức cho lớp trẻ
hiện tại.
Đạo đức
được xem là khái niệm luân thường đạo lý của con người, nó thuộc lĩnh
vực thiện và bất thiện, được sử dụng trong phạm vi: trước hết, nói
đến đạo đức là nói đến lương tâm con người; hai là ý thức xã hội, nó
gắn liền với văn hóa, tôn giáo và chủ nghĩa nhân văn; ba là tập hợp
những nguyên tắc, quy tắc nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của
con người trong quan hệ với nhau, với xã hội, với tự nhiên trong quá
khứ hiện tại cũng như tương lai. Chúng được thực hiện bởi niềm tin cá
nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội. Do vậy, để đánh
giá một đất nước lành mạnh là đánh giá trên tầng lớp người đang hiện
diện. Ngày nay, cuộc sống lắm sự hiện đại xa hoa phù phiếm, những bậc
trưởng bối nhiều lúc bị lớp trẻ hiện đại xếp vào lớp người lạc hậu, cổ
hủ. Thế nhưng loại tư tưởng này đã ăn sâu trong tâm khảm lớp trẻ tại
vì đâu? Phải chăng vì những người làm giáo dục, hay những bậc làm cha
mẹ thiếu đi sự giáo dục răn đe, hay vì quá say đắm vào nền văn minh
vật chất hiện đại...? Dù ý thức đạo đức của lớp trẻ ngày nay có tiến
triển theo chiều hướng thiện hay chiều hướng bất thiện, trong đó không
thể không nói đến trách nhiệm của những người đi trước, những bậc cha
mẹ, những người làm giáo dục… và bao gồm cả lĩnh vực tôn giáo. Đã đến
lúc cần gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh con người, sớm bước ra khỏi
ngục tù sa đọa. Những bậc làm cha mẹ phải có bổn phận giáo dưỡng, bậc
làm thầy phải có trách nhiệm đem đạo đức mà giáo hóa con trẻ, lãnh đạo
quốc gia phải có trách nhiệm bảo vệ lớp trẻ khỏi những loại văn hóa
đồi trụy và tất cả cùng có ý thức trách nhiệm chung.
Một điều rõ
ràng rằng, trong một gia đình những người con được nên người, thành
danh phần lớn nhờ vào sự giáo dục cũng như tình thương của cha mẹ.
Trong một ngôi chùa, người đệ tử để trở thành một con người có đủ tài
đức thì sự góp sức từ người thầy không nhỏ. Trong xã hội, một con người
thành tựu nên được tài đức, hẳn có sự tương tác từ nhiều giai tầng xã
hội. Nhưng trong mối quan hệ hỗ tương, người đệ tử cũng có thể góp
phần đem lại sự thành công cho thầy mình trong việc xiển dương Phật
pháp hay đem lại sự hãnh diện cho gia đình nói riêng và cho đạo pháp
nói chung. Một con người dù tài năng đến đâu, nếu không có được sự
giúp sức của người khác thì vẫn gặp rất nhiều hạn chế trong công việc
của mình.
Có một
lĩnh vực vô cùng quan trọng, nhưng có lẽ lớp trẻ đang thiếu, đó là đạo
đức tâm linh. Tâm linh là tiếng lòng vô cùng mầu nhiệm và huyền bí.
Tâm linh có thể chuyển hóa con người hướng thiện, khi họ thật sự hiểu
được và hiểu đúng giá trị đích thực của cuộc sống. Hành trình tâm linh
giúp con người từ phàm phu tục tử trở nên thánh thiện. Hành trình tâm
linh đi từ mảnh đất tâm và đích đến cũng là mảnh đất tâm. Đây là tiến
trình để hoàn thiện phẩm hạnh đạo đức. Nó không phải là sản phẩm chỉ
dành riêng cho tầng lớp xuất gia mà nó là cơ hội, là nền tảng để mọi
người cùng thể nghiệm. Con đường này dễ dàng thực tập đối với ai có
chí hướng thiện, nhưng nó cũng vô cùng khó đối với ai xem thường giá
trị đạo đức.
Trong Pháp cú có một đoạn nêu lên lộ trình tâm linh, việc chuyển hóa tâm linh và tỏ rõ nguồn tâm linh bằng câu kệ:
Lang thang vạn kiếp luân hồi,
Tìm không ra kẻ xây ngôi nhà này,
Ôi! Đời sống thật buồn thay,
Bèo mây bến cũ vần xoay lối về,
Hỡi này anh thợ nhà kia,
Rui, mè, kèo, cột gãy lìa nát tan,
Bao tham đắm thảy tiêu tàn,
Tâm ta thắng đạt niết-bàn thảnh thơi. (Dhammapada)
Cuộc
sống là một chuỗi móc xích các tầng lớp xã hội, bao gồm nhiều lĩnh vực
khác nhau. Mỗi lĩnh vực là một môn học mà ta có thể học hỏi và hoàn
thiện nhân cách đạo đức. Mỗi lĩnh vực đều có những điểm riêng nhưng
tất cả đều có chung một hướng đến là đem lại nguồn tri thức cho con
người. Tôn giáo là một bộ phận quan trọng trong hệ thống xã hội, vì
tôn giáo có thể giúp con người phát triển đạo đức và hoàn thiện nhân
cách.
Sở dĩ
lớp trẻ ngày nay ở một số nơi, đánh mất đạo đức, sống thực dụng và
buông thả, cũng vì người ta chưa nhận thấy được giá trị của đạo đức
tôn giáo. Đạo Phật sẽ làm gì đối với tình trạng đạo đức đang suy thoái
của một bộ phận xã hội hiện nay? Việc giáo dục lớp trẻ vô cùng quan
trọng. Một thế hệ tốt phải dựa trên nền tảng giáo dục đạo đức tốt. Do
đó, giáo dục không chỉ là dạy và học mà trong đó không thể thiếu đi
yếu tố đạo đức và yếu tố nhân văn.
Giáo
dục tuổi trẻ trong Phật giáo và thế gian có phần khác biệt, có thể xem
hình ảnh La-hầu-la là biểu tượng giáo dục tiêu biểu trong Phật giáo.
Theo Phật giáo, kinh nghiệm giáo dục tuổi trẻ và nghệ thuật giáo dục
trẻ em là giúp chúng nhận diện được các hành vi xấu, và dạy cách
chuyển hóa những hành vi bất thiện ấy. Trong đời sống thiền môn, một
người đệ tử nếu phạm phải sai lầm thì phải thành tâm sám hối. Sám hối
có nghĩa là tự mình bày tỏ lỗi lầm trước Phật-Pháp-Tăng, tỏ rõ sự hổ
thẹn và tự nguyện với lòng là sẽ không sai phạm. Sám hối như vậy là
biểu hiệu phẩm hạnh đạo đức.
Phật
giáo không thể không có trách nhiệm khi đạo đức của tuổi trẻ trong xã
hội ngày một sa sút. Đạo Phật có bổn phận chuyển mê khai ngộ, hóa giải
những bất trắc còn đọng trong tư tưởng thế hệ trẻ, bằng cách tổ chức
những lớp học mà nội dung chủ yếu là giảng dạy cho các em về giá trị
đạo đức, dùng những lời Phật dạy khuyên răn và hướng các em đến một
đời sống chân thiện.
J.Nehru
từng viết: “Rõ ràng tôn giáo đã đáp ứng nhu cầu con người, và đa số
con người trên thế giới đều có một hệ thống tín ngưỡng nào đó… Tôn
giáo đã đưa ra một loại giá trị cuộc sống cho con người mà dù một số
chuẩn mực ngày nay không còn được áp dụng, nhưng những chuẩn mực ấy
vẫn còn là cơ sở cho tinh thần và đạo đức”. Như vậy có thể nói trong
quá trình tồn tại xã hội, giữa hình thái ý thức tôn giáo và ý thức đạo
đức, luôn có quan hệ tương tác đan xen và thâm nhập lẫn nhau. Sự tác
động biện chứng đó lại diễn ra trong chính quy định của điều kiện sinh
hoạt vật chất xã hội. Vì vậy nói bản thân tôn giáo chứa đựng những nội
dung đạo đức là điều có thể hiểu được. Bất cứ tôn giáo nào cũng có
một hệ thống chuẩn mực và giá trị đạo đức nhằm điều chỉnh ý thức và
hành vi đạo đức của các tín đồ. Thực tế cho thấy, quan niệm đạo đức
của hầu hết mọi tôn giáo, ngoài những giá trị đặc thù bảo vệ niềm tin
tôn giáo thiêng liêng, còn đề cập đến những chuẩn mực đạo đức mang
tính nhân bản, như sống hiếu thảo với cha mẹ, trung thực, nhân ái,
hướng tới cái thiện, tránh xa điều ác... Vì vậy, đương nhiên, một số
nội dung của đạo đức trở thành bộ phận cấu thành nội dung của tôn
giáo.
Vấn đề
trọng tâm của Phật giáo là “ly khổ đắc lạc”, nghĩa là phải tận diệt
những mầm mống nguyên nhân đưa đến đau khổ để thành tựu đời sống an
lạc giải thoát, chứng được Niết bàn. Muốn đạt được điều đó, con người
không chỉ có niềm tin tôn giáo, mà còn cần cả sự phấn đấu nỗ lực của
bản thân bằng cách thực hành một đời sống đạo đức đúng nghĩa. Từ đó,
Phật giáo đưa ra những chuẩn mực đạo đức rất cụ thể để con người tu
tập, phấn đấu hướng đến con đường tâm linh. Trong đó những chuẩn tắc
phổ biến nhất là Ngũ giới (không sát sinh, không trộm cắp, không tà
dâm, không nói dối, không uống rượu) và Thập thiện (ba điều thuộc về
thân: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm; ba điều thuộc về ý
thức: không tham lam, không thù hận, không si mê; bốn điều thuộc về
khẩu: không nói dối, không nói thêu dệt, không nói hai chiều, không ác
khẩu). Những chuẩn mực này, nếu lược bỏ màu sắc mang tính chất tôn
giáo, sẽ là những nguyên tắc ứng xử phù hợp giữa người với người, rất
có ích cho việc duy trì đạo đức xã hội. Phải nói rằng, tôn giáo đã đề
cập trực tiếp đến những vấn đề đạo đức cụ thể của cuộc sống thế tục và
ít nhiều mang giá trị nhân văn. Trên thực tế, những giá trị, chuẩn mực
đạo đức của các tôn giáo có ý nghĩa nhất định trong việc duy trì đạo
đức xã hội.
Như
vậy, có thể khẳng định rằng đạo Phật hay bất cứ tôn giáo nào cũng đều
có một mảng đạo đức và đạo đức ấy mang tính đặc thù, đồng thời, có sự
giao thoa giữa những giá trị đạo đức của xã hội nói chung với đạo đức
tôn giáo. Đạo đức tôn giáo cũng có một số giá trị nhất định trong đời
sống xã hội, là một trong những nhân tố ảnh hưởng mạnh mẽ tới nền đạo
đức xã hội. Do đạo Phật có sự đồng hành lâu dài với loài người xuyên
suốt lịch sử, nên có thể xem nó như một phần văn hóa của nhân loại.
Trong quá trình phát triển và phổ biến trên bình diện thế giới, đạo
Phật không chỉ đơn thuần chuyển tải niềm tin, mà còn có vai trò chuyển
tải, hòa nhập văn hóa và văn minh, góp phần duy trì đạo đức xã hội
nơi trần thế.
Đạo đức
Phật giáo nói riêng đều hướng con người đến những giá trị nhân bản,
góp phần tích cực vào việc hoàn thiện đạo đức cá nhân. Tinh thần “từ
bi” trong Phật giáo không chỉ hướng đến con người, mà còn đến cả muôn
vật, cỏ cây. Phật giáo kêu gọi lòng nhân đạo, yêu thương và bảo vệ sự
sống. Đặc biệt, trong quan hệ giữa con người với con người, Phật giáo
muốn tình yêu thương ấy phải biến thành hành động xoa dịu nỗi đau, cứu
giúp những người đau khổ hoặc đoàn kết giữ gìn hòa bình. Ngày nay,
thế giới biến động, con người sống trong lo sợ bởi bạo lực hoành hành.
Đạo đức của lớp trẻ lại bị biến thoái trầm trọng, Phật giáo cũng như
mọi tôn giáo trên thế giới muốn giải thoát con người khỏi đau khổ, và
con người cần phải tự hoàn thiện đạo đức cá nhân, diệt trừ
tham-sân-si, xóa bỏ vô minh, chặt đứt phiền não để vượt qua biển khổ
luân hồi. Tình yêu tha nhân trong Phật giáo hay các tôn giáo khác không
đơn thuần là tình yêu trong tâm tưởng mà được cụ thể hóa, như kẻ đói
được cho ăn, kẻ rách được cho mặc, chăm sóc người ốm đau, bệnh hoạn,
khuyên can người lầm lỗi... Tóm lại, đây là những hành vi đạo đức rất
cụ thể, rất thiết thực khi trong xã hội còn nhiều cảnh khổ cần được cứu
vớt, giúp đỡ là điều mà bản thân Phật giáo nói chung hay Tôn giáo nói
riêng cần phải góp bàn tay nhân ái để xoa dịu, làm lắng đọng nỗi đau,
giúp thế hệ trẻ vững bước trước những cám dỗ đời thường. Có như thế
chính là Phật giáo đã đóng góp giá trị văn hóa đạo đức trong việc xây
dựng nhân sinh, xây dựng lớp trẻ trong hiện tại cũng như tương lai được
hoàn mỹ.
Lam Yên